Bẫy việt vị của Thủ tướng
Bẫy Việt Vị của Thủ Tướng
Huy Đức
Ủy ban Tài chính của Quốc hội cần yêu cầu Ngân hàng Nhà nước công bố
danh sách các tổng công ty, tập đoàn nhà nước đã mở tài khoản và ồ ạt
chuyển một lượng tiền lớn vào VietCapital Bank ngay sau khi con gái của
Thủ tướng, bà Nguyễn Thanh Phượng, thôn tính ngân hàng này từ tên gốc
của nó là Gia Định. Những con số ấy có thể là một ví dụ thú vị về
“lợi ích nhóm” mà Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng nhắc tới trong đợt kiểm
điểm theo Nghị quyết Trung ương Bốn. Nhưng, quan trọng hơn, Quốc hội
cần biết công cụ chủ đạo của nền kinh tế đang được sử dụng như thế nào.
Kinh Doanh Đa Ngành
Ý tưởng thành lập tập đoàn không chỉ đến từ thời Thủ tướng Nguyễn
Tấn Dũng. Nhưng, cần có đủ thông tin để phân biệt mô hình tập đoàn
Nguyễn Tấn Dũng với mô hình tập đoàn áp dụng từ những người tiền nhiệm.
Năm 1994, khi những nỗ lực phát triển kinh tế tư nhân chững lại
vì bị các nhà lý luận “ cánh tay phải ” của ông Đỗ Mười như Đào Duy
Tùng, Nguyễn Hà Phan, Nguyễn Đức Bình, coi là chệch hướng. Sau Hội nghị
giữa nhiệm kỳ, 1-1994, Thủ tướng Võ Văn Kiệt đã ký hai quyết định thành
lập tổng công ty 90, 91. Trong đó, quyết định 91 có nói đến “ thí điểm
thành lập tập đoàn kinh doanh ”.
Ý tưởng thành lập tập đoàn là từ ông Đỗ Mười với quan niệm nền
kinh tế cần những quả đấm thép. Nhưng cả ông Kiệt và nhiều ủy viên bộ
chính trị đều tán thành. Lúc ấy, hơn một nửa ủy viên bộ chính trị đã
được đưa tới Hàn Quốc tham quan và gần như ai cũng choáng ngợp mô hình
Cheabol của họ.
Nhưng, từ 1994 cho đến 2005, chưa có tập đoàn nào được thành lập
theo quyết định 91. Cuối nhiệm kỳ thứ II, Thủ tướng Phan Văn Khải cho
lập 3 tập đoàn : Ngày 26-12-2005, tập đoàn Công nghiệp Than - Khoáng
sản Việt Nam; Ngày 09-01-2006, Tập đoàn Bưu chính Viễn thông ; Ngày
15-5-2006, Tập đoàn Công nghiệp tàu thủy Việt Nam Vinashin.
Thủ tướng Phan Văn Khải thừa nhận, ông là người quyết định cho
Vinashin vay 700 triệu USD từ tiền bán trái phiếu chính phủ. Ông Khải
cho rằng, Việt Nam, một nước có hơn 3000 km bờ biển không thể không
phát triển ngành vận tải biển. Suy nghĩ về tiềm lực biển của ông Phan
Văn Khải không sai nhưng đầu tư bằng tiền cho quốc doanh không phải là
một cách làm tốt. Nhưng, sự sụp đổ của Vinashin bắt đầu từ khi tập đoàn
này được phép kinh doanh đa ngành.
Trước Đại hội Đảng lần thứ X, ông Nguyễn Tấn Dũng được giao làm
Tổ trưởng biên tập báo cáo kinh tế của Ban chấp hành Trung ương trước
Đại hội. Ông đòi ghi vào báo cáo chủ trương cho doanh nghiệp nhà nước
được kinh doanh đa ngành. Các thành viên trong tổ phản đối vì điều này
ngược với quan điểm phát triển doanh nghiệp nhà nước xác lập từ thời
thủ tướng Võ Văn Kiệt.
Thay vì tiếp thu, ông Nguyễn Tấn Dũng đã viết ra giấy, buộc các
thành viên trong tổ phải ghi vào Báo cáo kinh tế nguyên văn : “ Thúc đẩy việc hình thành một số tập đoàn
kinh tế và tổng công ty nhà nước mạnh, hoạt động đa ngành, đa lĩnh vực,
trong đó có một số ngành chính; có nhiều chủ sở hữu, trong đó sở hữu
nhà nước giữ vai trò chi phối ”.
Nguyễn Tấn Dũng nhận chức thủ tướng ngày 27-6-2006. Ngày
29-8-2006, ông cho ngành dầu khí được nâng lên quy mô tập đoàn ; ngày
30-10-2006 ông cho thành lập thêm Tập đoàn Công nghiệp Cao su… Tốc độ
thành lập tập đoàn có chững lại sau khi ông Võ Văn Kiệt khuyến cáo tính
ít hiệu quả của mô hình này trên Thời báo Kinh tế Sài Gòn số ra ngày
26-7-2007.
Ông Võ Văn Kiệt mất gần 11 tháng sau đó và từ đó cho đến năm
2011, thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã đẩy con số tập đoàn từ 5 lên tới 13.
Nhưng, không phải số lượng các tập đoàn mà số lượng ngành nghề mà các
tập đoàn này được làm mới là nguyên nhân đẩy các doanh nghiệp nhà nước
và nền kinh tế đến bên bờ vực. Rất nhiều tập đoàn có ngân hàng, công ty
tài chính và chúng ta có thể nhìn thấy đất của Vinashin ở sâu trong đất
liền và hầu như không có tỉnh nào không có một tòa PetroLand mọc lên
dưới thời Đinh La Thăng.
Đại Nhảy Vọt
Không có một vị thủ tướng nào thừa kế một cơ ngơi có thể ngồi mát
ăn bát vàng như Nguyễn Tấn Dũng : Tốc độ tăng trưởng cao, lạm phát
thấp; lần đầu tiên Việt Nam có dự trữ ngoại tệ lên tới 23 tỷ đô la; đặc
biệt, chính phủ Phan Văn Khải đã hoàn tất đàm phán để Việt Nam chỉ cần
làm thủ tục kết nạp là trở thành thành viên WTO. Nhưng, ngôi nhà tưởng
là vững chãi ấy đã bị đốt cháy chỉ hơn một năm rưỡi sau đó.
Thoạt tiên, khu vực kinh tế nhà nước được Nguyễn Tấn Dũng sử dụng
như một công cụ để thúc đẩy tăng trưởng. Ông Phan Văn Khải nói : “ Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng muốn tạo ra một
thành tích nổi bật ngay trong nhiệm kỳ đầu tiên của mình, muốn hoàn
thành kế hoạch 5 năm chỉ trong 4 năm. Ngay trong năm 2007, ông đầu tư ồ
ạt. Tiền đổ ra từ ngân sách, từ ngân hàng. Thậm chí, để có vốn lớn, dự
trữ quốc gia, dự trữ ngoại tệ cũng được đưa ra. Bội chi ngân sách lớn,
bất ổn vĩ mô bắt đầu ”.
Thời Thủ tướng Phan Văn Khải, mỗi khi tổng đầu tư lên tới trên
30% GDP là lập tức Thủ tướng được báo động. Trước năm 2006, năm có tổng
đầu tư lớn nhất cũng chỉ đạt 36%. Trong khi, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng,
ngay sau khi nhận chức đã đưa tổng mức đầu tư lên 42% và đạt tới 44%
GDP trong năm 2007. Năm 2006, tăng trưởng tín dụng ở mức 21,4% nhưng
con số này lên tới 38,7% trong năm 2007. Kết quả, lạm phát cả năm ở mức
12,6%. Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng đã gần như hốt hoảng. Những cú shock
được áp dụng sau đó đã làm cho nền kinh tế trở nên vô phương cứu chữa.
Đầu quý I-2008, khi con số lạm phát lên tới gần 3% mỗi tháng,
thay vì chẩn bệnh để có phương thuốc đúng, Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng đã
buộc các ngân hàng nâng mức dự trữ bắt buộc từ 10 lên 11%, các ngân
hàng nháo nhào tìm kiếm thêm 20.000 tỷ khiến lãi suất qua đêm thị
trường liên ngân hàng mấy ngày cuối tháng 1-2008 tăng vọt lên tới 27%,
trong khi đầu tháng, con số này chỉ là 6,52%.
Ngày 13-2-2008, Ngân hàng Nhà nước lại ra quyết định, buộc các
ngân hàng thương mại phải mua một lượng tín phiếu trị giá 20.300 tỉ
đồng. Áp lực tiền bạc của các ngân hàng lên tới hơn 40.000 tỉ đồng đã
làm náo loạn các tổ chức tín dụng. Các ngân hàng cổ phần buộc lòng phải
tăng lãi suất huy động. Sự chênh lệch về lãi suất đã khiến cho các tổng
công ty nhà nước rút tiền, đang cho vay lãi suất thấp ở các ngân hàng
quốc doanh, gửi sang ngân hàng cổ phần.
Chỉ trong ngày 18-2-2008, các tổng công ty nhà nước đã rút ra hơn
4.000 tỉ đồng. Các ngân hàng quốc doanh, vốn vẫn dùng những nguồn tiền
lãi suất thấp từ nhà nước đem cho các ngân hàng nhỏ vay lại. Nay thiếu
tiền đột ngột, vội vàng ép các ngân hàng này, rút về. “ Cơn khát ” tiền
mặt toàn hệ thống đã đẩy lãi suất thị trường liên ngân hàng trong những
ngày này có khi lên tới trên 40%.
Lãi suất huy động tăng, đã khiến cho các ngân hàng phải tăng lãi
suất cho vay. Nhiều ngân hàng buộc khách hàng chấp nhận lãi suất cho
vay 24 - 25%. Các biện pháp chống lạm phát của Chính phủ đã làm cho lạm
phát ba tháng đầu năm 2008 lên tới 9,19%. Ngày 25-3-2008, ngân hàng Nhà
nước lại khiến cho tình trạng khan hiếm tiền mặt thêm nghiêm trọng khi
yêu cầu thu về 52.000 tỉ đồng của ngân sách đang được đem cho các ngân
hàng quốc doanh vay với lãi suất 3%/năm.
Từ mức trên 1000, ngày 6-3-2008, chỉ số VN-index xuống còn 611.
Cho dù Phó Thủ tướng Nguyễn Sinh Hùng cố dùng uy tín chính trị của mình
để cứu vãn bằng cách tuyên bố rằng, “ đầu
tư vào chứng khoán bây giờ là thắng ” vì VN-index đã xuống đến
đáy. Nhưng, những ngày sau đó, VN-index liên tục lập đáy mới: Ngày
25-3-2008, 492 điểm; Ngày 5-12-2008, 299 điểm.
Chính những “ đại gia ” gần gũi thủ tướng nhất lại “ chết ” đau
thương nhất vì họ đã từng được vay tiền dễ dàng, có dự án dễ dàng, kể
cả các dự án trong khu vực chuẩn bị sáp nhập về Hà Nội. Từ năm 2008,
mỗi năm các đại gia này đã phải chịu lãi suất 24-25%/ năm chưa kể những
khoản lót tay, trong khi giá trị các dự án chỉ có thể bán được phân nửa
so với thời 2007. Thay vì tìm một lối thoát cho nền kinh tế, đặc biệt
là khu vực tài chính ngân hàng, giai đoạn tái cấu trúc ngân hàng, tái
cấu trúc nợ lại là một cơ hội kiếm tiền cho nhiều đại gia thân hữu mới.
Tham nhũng chưa phải là vấn đề lớn nhất dưới thời Thủ tướng
Nguyễn Tấn Dũng. Chính phủ Thủ tướng Phan Văn Khải đã từng rất nỗ lực
để tạo ra một môi trường kinh doanh bình đẳng. Ban nghiên cứu của Thủ
tướng Phan Văn Khải đã sát cánh nhiều năm với Tổ thi hành Luật Doanh
nghiệp. Hơn 500 loại giấy phép đã bị Thủ tướng Phan Văn Khải bãi bỏ.
Khi ông Khải rời nhiệm sở, Tổ công tác tiếp tục đề nghị bãi bỏ thêm
hàng trăm giấy phép con. Nhưng, thay vì ra quyết định, Thủ tướng Nguyễn
Tấn Dũng đã giải tán Ban nghiên cứu và để cho các loại giấy phép lại
mọc lên như nấm.
Có lẽ một người được coi là bảo thủ như ông Đỗ Mười cũng không
thể nào ngờ có ngày “ hậu duệ ” của mình lại ký lệnh tái độc quyền nhà
nước đối với vàng. Nhà nước đã từng độc quyền vàng, những người sở hữu
từ 2 chỉ trở lên từng bị coi là bất hợp pháp. Ngày 24-5-1989, Chủ tịch
Hội đồng Bộ trưởng Đỗ Mười ký Quyết định 139, cho phép tư nhân mở tiệm
vàng với điều kiện chỉ cần ký quỹ 5 lượng. Chỉ sau hai tháng cả nước có
tới 400 tiệm vàng. Quyết định của ông Đỗ Mười được đưa ra như là một
giải pháp cộng hưởng để chống lạm phát.
Trong suốt 23 năm tồn tại của Quyết định 139 nền kinh tế chưa bao
giờ đổ tội lạm phát cho vàng. Vậy mà bất lực trước khủng hoảng kinh tế,
ngày 25-5-2012, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã ký nghị định 24, giành lấy
quyền sản xuất vàng miếng cho nhà nước và buộc doanh nghiệp kinh doanh
vàng miếng phải có vốn trên 100 tỷ đồng.
Lẽ ra ông Trương Đình Tuyển phải từ chức đứng đầu nhóm 13 người
tư vấn sau khi một quyết định như thế ra đời. Bỏ qua các động cơ trục
lợi, Nghị định 24 là vi hiến vì nó làm cho vàng miếng không phải SJC
của người dân tự nhiên mất giá. Đặc biệt, nó đi ngược lại các cam kết
WTO mà ông Tuyển đóng vai trò quyết định trong đàm phán.
Bẫy Việt Vị
Ngày 2-8-2011, trung tướng Nguyễn Đức Nhanh khẳng định trong một
buổi họp báo : “ Hà Nội không có chủ
trương trấn áp người biểu tình ”. Để rồi, ngày 18-11-2011, từ
chỗ coi những người biểu tình chống Trung Quốc là yêu nước, Hà Nội ra
thông báo vu cho người biểu tình là “ gây
rối Thủ đô ”, là có “ các thế
lực chống đối trong và ngoài nước ”.
Dân chúng nào biết, tác giả bản thông báo này là thượng tướng
Nguyễn Văn Hưởng, Phái viên của thủ tướng đặc trách an ninh, tôn giáo.
Buổi tối trước khi bản thông báo được đưa xuống Hà Nội, Tướng Hưởng đã
đưa đến nhà để Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng trực tiếp đọc duyệt. Cho dù
không có quan chức nào ở Hà Nội chịu ký, bản thông báo và những “ tác
phẩm báo chí ” bôi nhọ người biểu tình khác vẫn được phát trên các
phương tiện truyền thông của Hà Nội. Từ đó, các vụ bắt bớ người biểu
tình diễn ra khốc liệt liên tục vào các ngày chủ nhật.
Mấy tháng sau, trong khi chính quyền Thủ đô bị kiện và phải mang
một gương mặt xấu trong mắt dân chúng, ngày 25-11-2011, Thủ tướng
Nguyễn Tấn Dũng đề nghị Quốc hội “ sớm
có luật biểu tình để nhân dân thực hiện quyền đã được ghi trong Hiến
pháp ”.
Cũng thời gian đó, trong khi chính phủ đang đứng trước nguy cơ bị
truy vấn bởi món nợ tới hạn không trả được của Vinashin và nguy cơ sụp
đổ của các ngân hàng, ông Nguyễn Tấn Dũng đã việt vị Quốc hội khi đăng
đàn nói về biển đảo. Nguyễn Tấn Dũng đã khiến cho dân chúng tạm quên đi
những vết thương kinh tế do ông gây ra khi trở thành chính trị gia đầu
tiên của Hà Nội nói “ Trung Quốc đã
dùng vũ lực chiếm Hoàng Sa từ năm 1974 ”. Ngay cả Bộ chính trị
cũng bị bất ngờ. Ông Dũng đã bí mật soạn bài diễn văn này, diễn đi diễn
lại nhiều lần trước khi xuất hiện ngày 25-11-2011 trong phiên họp toàn
thể được truyền hình trực tiếp.
Sau bài phát biểu ấy, nhằm chuẩn bị dư luận chống đỡ những đợt
kiểm điểm trong nội bộ, thông tin bắt đầu được rỉ tai, “ phe thân Tàu đang tìm cách chống ông Tấn
Dũng ”. Nhóm “13” hiện đã chuẩn bị theo đơn đặt hàng của ông
Nguyễn Tấn Dũng một bài phát biểu về nhà nước pháp quyền.
Sau khi các đại gia gần gũi ông như Nguyễn Đức Kiên, Dương Chí
Dũng, bị bắt ; Trầm Bê ở trong tầm ngắm…, những ai nghĩ rằng ông Dũng
đang hoảng sợ rất có thể sẽ mắc bẫy việt vị. Ông Nguyễn Tấn Dũng rất có
thể lại xuất hiện như một nhà cải cách.
HUY ĐỨC
NGUỒN : blog
FB của Huy Đức
Các thao tác trên Tài liệu