Đất nước đòi hỏi phải đổi mới chính trị !
Kính gửi Hội nghị Trung ương 8 :
ĐẤT NƯỚC ĐÒI HỎI
PHẢI ĐỔI MỚI CHÍNH TRỊ !
Tống Văn Công
A. ĐẤT NƯỚC ĐANG LÂM VÀO KHỦNG HOẢNG TOÀN DIỆN
Hội nghị lần thứ 8 của BCH TƯ Đảng Cộng sản VN sẽ kiểm điểm việc thực
hiện Nghị quyết ĐH11 và các nghị quyết TƯ, trên cơ sở đó sẽ quyết định
các việc trọng đại của đất nước. Đối chiếu thực tế cuộc sống đang diễn
ra so với các Nghị quyết của Đảng, xin gửi tới Hội nghị bài viết với
nỗi niềm trăn trở.
I. KINH TẾ SUY SỤP, DO “YẾU KÉM NỘI TẠI, CƠ CẤU LẠC HẬU”
Cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm 2011) viết: “Kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo. Kinh tế tập thể không ngừng được củng cố và phát triển. Kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân.”
Chiến lược phát triển kinh
tế xã hội viết: “Phấn đấu đến năm
2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Để
đạt mục tiêu đó, phải tăng trưởng GDP hàng năm bình quân từ 7 đến 8%;
GDP năm 2020 bằng 2,2 lần so với năm 2010; GDP bình quân đầu người
khoảng 3000 USD.Tỉ trọng công nghiệp, dịch vụ chiếm 85% trong GDP. Giá
trị sản phẩm công nghệ cao và ứng dụng công nghệ cao khoảng 45% trong
GDP. Giá trị sản phẩm công nghiệp chế tạo khoảng 40% trong sản xuất
công nghiệp.”
Ngay năm đầu tiên thực hiện Nghị quyết ĐH11, nền kinh tế Việt Nam vấp
phải khó khăn lớn nhất sau 20 năm, kể từ năm 1991. Mục tiêu tăng trưởng
đề ra 7,5% chỉ đạt được 5,8%; Quốc hội đề ra mức lạm phát 7%, thực tế
lên tới 19%; hơn 48000 doanh nghiệp phá sản; các tập đoàn kinh tế nhà
nước được kỳ vọng là “quả đấm thép” của nền kinh tế thua lỗ nặng nhất,
chỉ riêng Vinashin đã gây ra nợ 4 tỉ USD; thị trường bất động sản đóng
băng; hàng trăm vụ vỡ nợ tín dụng đen; nợ xấu chiếm 15% tổng tín dụng;
nhập siêu10 tỉ USD; Khả năng cạnh tranh của nền kinh tế sút giảm nghiêm
trọng vì tham nhũng, lãng phí làm cho chỉ số ICOR (số đồng vốn bỏ ra để
thu 1 đồng lãi) tăng vọt xấp xỉ 2 con số (chỉ số ICOR của các nước
trong vùng chỉ từ 3 đến 4). Kinh tế nhà nước là gánh nặng của nhân dân,
nhận vào 65% tổng tín dụng để làm ra 28% tổng sản phẩm!
Cuối năm 2011, Đảng và Chính phủ đề ra chủ trương tái cấu trúc nền kinh
tế để cứu vãn: Tái cấu trúc các tập đoàn, tổng công ty nhà nước; tái
cấu trúc hệ thống ngân hàng và hệ thống thể chế tài chính, giải quyết
nợ xấu; tái cấu trúc đầu tư công. Diễn đàn Mùa thu 2012 ở TP Vũng Tàu
nhận định: “Những nguy cơ mang tính cơ cấu và hệ thống đang đe dọa nền
kinh tế”. Viện trưởng Viện kinh tế Việt Nam Trần Đình Thiên cho rằng
“Cần phải đổi mới về cải cách đất đai,tiếp theo là cải cách doanh
nghiệp Nhà nước theo nghĩa thị trường; sau đó là cải cách ngân hàng Nhà
nước một cách quyết liệt; tất cả phải công khai, minh bạch”. Cam kết
với WTO phát triển nền kinh tế thị trường , nhưng thực tế dùng nhiều
biện pháp hành chính và ngắn hạn, nhiều loại giá cơ bản phi thị trường.
Các nhóm lợi ích bất chính đang là lực cản của tái cơ cấu nền kinh tế,
chi phối chính sách ngày càng trắng trợn. Diễn đàn kinh tế mua thu năm
2013, ở Huế, Viện trưởng Trần Đình Thiên mở đầu tham luận, cho rằng
“Kinh tế thế giới đã bước vào quỹ đạo phục hồi, nhưng Việt Nam không
nằm trong quỹ đạo đó.Những “điểm đen” như nợ xấu, sở hữu chéo trong các
ngân hàng vẫn còn nguyên, tái cơ cấu kinh tế nhà nước vẫn nằm trên
giấy. Kinh tế vẫn trong lộ trình “xuống đáy” và nằm bẹp ở đấy”. Giáo sư
Võ Đại Lược đề nghị bán các doanh nghiệp nhà nước như bia, rượu, nước
giải khát, đất đai của Tổng công ty Thương mại Hà Nội… lấy tiền làm
việc có ích.
Nhiều nhà nghiên cứu kinh tế cho rằng mục tiêu đưa Việt Nam đến năm
2020 cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại không thể
nào đạt được.Cho đến nay Việt Nam chỉ có nền công nghiệp gia công và là
bãi thải công nghiệp của các nước.
Hội nghị TƯ 3 (10-10-2011) nhận định: “Do yếu kém nội tại của nền kinh tế với mô hình tăng trưởng và cơ cấu kinh tế lạc hậu, kém hiệu quả, tích tụ kéo dài….” Ngày 5-9-2013, tại diễn đàn Việt Nam-Nhật Bản, ông Bùi Quang Vinh, Ủy viên TƯ Đảng, Bộ trưởng Bộ KH-ĐT phát biểu: “Kinh tế Việt Nam mấy năm qua gặp phải những khó khăn do tác động bên ngoài và chịu ảnh hưởng bởi suy thoái kinh tế thế giới, tuy nhiên nguyên nhân chủ yếu xuất phát từ những yếu tố của kết cấu bên trong, những yếu kém của nội bộ”.
Đúng vậy! Cũng trong tình hình kinh tế thế giới suy thoái, kinh tế của
các nước trong khu vực vẫn phát triển, nước lớn như Trung Quốc GDP năm
2011 là 9,2 %, năm 2012 là 7,8%; nước nhỏ như Campuchia năm 2011 GDP là
7,5%, năm 2012 là 7%, năm 2013 dự kiến 7,6%.).
Cuối năm 2013, vốn đầu tư nước ngoài có tăng lên so với hai năm trước,
đã đem lại nhiều hy vọng cải thiện cho kinh tế Việt Nam, tuy nhiên vấn
đề chính như ông Bùi Quang Vinh nói là “những yếu tố kết cấu bên trong,
những yếu kém nội bộ” vẫn chưa được giải quyết! “Yếu tố và kết cấu” đó
là gì? Phải chăng đó là điều mà nhiều nhà nghiên cứu khuyến nghị: Trả
lại quyền sở hữu ruộng đất cho nông dân và tư nhân hóa, cổ phần hóa các
doanh nghiệp nhà nước?
2. GIAI CẤP CÔNG NHÂN SỐNG DƯỚI MỨC SỐNG TỐI THIỂU 40%!
“Cương lĩnh” viết: “Xây dựng giai cấp công nhân lớn mạnh cả về số lượng và chất lượng; là giai cấp lãnh đạo cách mạng thông qua đội tiên phong là Đảng Cộng sản Việt Nam, giai cấp tiên phong trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội.”(Văn kiện ĐH 11, trang 80).
Báo cáo chính trị: “Gắn tiền lương của người lao động với hiệu
quả kinh doanh của doanh nghiệp” (Văn kiện, trang 228).
Nghị quyết 20 /NQ-TƯ về xây
dựng giai cấp công nhân viết: “Xử lý
đúng đắn mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với thực hiện tiến bộ và
công bằng xã hội và chăm lo xây dựng giai cấp công nhân; đảm bảo hài
hòa lợi ích giữa công nhân, người sử dụng lao động, Nhà nước và toàn xã
hội; không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của công nhân.”
Hơn 20 năm qua,giai cấp công nhân đã phát triển nhanh chóng. Họ là
những nông dân nghèo khó nhất rời đồng ruộng đến các khu kinh tế công
nghiệp tìm việc. Theo số liệu của Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam năm
2013, có 15 triệu người lao động làm công ăn lương, có 7,9 triệu đoàn
viên công đoàn, ở khu vực vốn đầu tư nước ngoài có hơn 1,7 triệu người.
Hai mươi năm qua có ba lần cải cách chế độ tiền lương, nhưng lương tối
thiểu cho đến nay vẫn chỉ đáp ứng được 60% mức sống tối thiểu của người
lao động. Luật Lao động cho doanh nghiệp được phép buộc công nhân làm
thêm 300 giờ/năm. Các chủ doanh nghiệp căn cứ mức lương tối thiểu do
Nhà nước quy định để trả cho công nhân. Do đó hình ảnh của giai cấp
công nhân hiện nay, theo báo cáo của Viện nghiên cứu Công nhân, Công
đoàn: Có 94% công nhân phải làm thêm ca, thêm giờ mà vẫn không đủ sống;
Có 26,5 % nam công nhân và 31,8 % nữ công nhân suy dinh dưỡng; Có 19,2
% công nhân thiếu máu; 70% thiếu iốt; Có 20% công nhân bỏ một bữa ăn
trong ngày. Công nhân coi được làm thêm giờ như một ân huệ. Nhiều ông
chủ doanh nghiệp phạt công nhân bằng hình thức không cho làm thêm giờ!
(Ông Thee Hong Bae ở Công ty Yujin Vina TP HCM cắt tăng ca vĩnh viễn
đối với công nhân Dương Văn Tam để phạt anh về “tội” sau đình công, mọi
người đã đi làm mà 2 ngày sau anh mới có mặt!. Cán bộ quản lý doanh
nghiệp thường kiếm cớ để phạt hoặc làm nhục công nhân: Ngày 20-5-2013,
ở Công ty Yujin Vina (TP HCM) anh Hậu lúc tan ca không xếp vào hàng, đã
bị ông quản lý Chu bóp miệng, nắm cổ áo lôi đi; tháng 7-2013, anh HVT ở
Prex - Vinh (Nghệ An) bị cán bộ quản lý ném phế phẩm vào mặt và đè đầu
dúi vào máy; ngày 18-7-2013 các chị Đặng Thiên Trang, Chu Thị Vân nghỉ
phép quá 1 ngày đã bị quản lý Công ty dệt may Thái Dương (TP HCM) phạt
trừ lương và phụ cấp 700. 000 đồng!...
Từ năm 1995 đến nay đã xảy ra hơn 5000 cuộc đình công, có những cuộc
huy động hơn 10.000 công nhân (như ở Công ty Keyhing Toys Đà Nẵng năm
2005, Công ty Pouchen Biên Hòa năm 2010). Tất cả các cuộc đình công đều
bị coi là bất hợp pháp, vì không có công đoàn lãnh đạo. Những người
được công nhân đình công cử làm đại diện đối thoại với chủ, sau khi ổn
định đều bị sa thải mà không được các cơ quan chức năng bảo vệ! Cách
đây 5 năm, Viện Khoa học Xã hội thực hiện cuộc điều tra tại 24 doanh
nghiệp, cho thấy có 84% người lao động không thấy công đoàn có vai trò
giải quyết tranh chấp. Báo cáo của Ban Chấp hành Tổng Liên đoàn Lao
động Việt Namtại Đại hội 11 Công đoàn Việt Nam nhận khuyết điểm: “Công
đoàn cơ sở chưa lãnh đạo được đình công theo quy định của pháp luật,
tham gia giải quyết tranh chấp lao động, ngừng việc tập thể, đình công
còn bị lúng túng.”
Chỉ cần đọc bài “Công nhân
đồng loạt đình công đòi quyền lợi” trên báo Công An Nghệ An ngày
20-7-2013 cũng đã có thể hình dung tình cảnh khốn cùng, bị chà đạp nhân
phẩm của giai cấp công nhân hiện nay. Bài báo kể trong một ngày tỉnh
Nghệ An có 2 cuộc đình công ở Công ty Prex Vinh và Công ty May
Hanosimex. Bài báo kể một số chi tiết: Bắt làm thêm giờ mà trả lương
rất bèo, tổng thu nhập trung bình là 1650000 đồng/ tháng, nhiều công
nhân bị bị ném phế phẩm vào mặt. Có người “yêu cầu quản lý không nên có
thái độ như vậy” lập tức bị đuổi việc, công nhân bấm thẻ chấm công sớm
30 giây, bị trừ cả ngày công, 1900/ 2500 công nhân đã vào công đoàn,
nhưng gửi kiến nghị lên, công đoàn không trả lời; chủ doanh nghiệp yêu
cầu công nhân đình công cử đại diện đối thoại, nhưng cuộc đình công hồi
năm ngoái, cả 8 người được cử làm đại diện đối thoại với chủ sau đó đều
bị đuổi việc, cho nên lần này không ai dám nhận làm đại diện!
Bộ Lao Động, Thương Binh và Xã Hội kiên trì quan điểm “Nếu điều chỉnh
lương tối thiểu đảm bảo ngay nhu cầu tối thiểu thì rất nhiều doanh
nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp dệt may, da giày gia công sẽ phá sản.”
Quan điểm này vừa trái với các nghị quyết nói trên của Đảng, vừa sai
với thực tế (thời gian qua có nhiều cuộc đình công ở các doanh nghiệp
dệt may, da giày gia công đều được chủ doanh nghiệp giải quyết yêu sách
tiền lương mà họ không hề bị phá sản) và trái với lý luận: “Giá trị sử
dụng của thứ hàng hóa đặc biệt sức lao động là ở chỗ nó sinh ra một giá
trị lớn hơn giá trị của chính bản thân nó. Do đó người sử dụng lao động
phải trả mức lương tối thiểu không chỉ đủ nuôi sống bản thân người lao
động mà còn phải có dư để nuôi sống gia đình anh ta, đảm bảo tái sản
xuất sức lao động” (Marx, Engels T23, trang 252). Ý kiến chưa thể tăng
lương tối thiểu đủ mức sông tối thiểu giống như đại diện nhóm lợi ích
của các ông chủ tư bản hoang dã. Thế mà tại sao họ không bị khiển
trách? Ngành dệt may,da giày gia công còn được cho ưu tiên làm thêm giờ!
Từ năm 1930 cho đến trước Đổi Mới, những người cộng sản Việt Nam luôn
luôn lấy khẩu hiệu đòi ngày làm 8 giờ để vận động công nhân. Tại sao
ngày nay, sau 28 năm Đổi Mới, trong khi Tổ chức Lao động Quốc tế đòi
ngày làm 7 giờ, tuần làm 5 ngày, tức 35 giờ/tuần thì Nhà nước Việt Nam
lại có chính sách bảo trợ chủ doanh nghiệp buộc công nhân làm thêm 300
giờ, nhưng thực tế còn cao hơn nhiều, với đồng lương chết đói? Tại sao
chúng ta thừa lao động, nhất là lao động giản đơn mà không buộc các
doanh nghiệp dệt may, da giày gia công là những ngành sử dụng lao động
giản đơn giá rẻ, nếu thiếu nhân công thì phải tuyển dụng thêm , cấm họ
buộc công nhân làm thêm giờ và đòi họ phải trả lương theo hợp đồng thỏa
thuận với người lao động ?
3. NÔNG DÂN KHIẾU KIỆN, TỰ TỬ VÀ BẮT ĐẦU DÙNG SÚNG !
Cương lĩnh viết: “Xây dựng, phát huy vai trò chủ thể của giai cấp nông dân trong quá trình phát triển nông nghiệp, nông thôn.”
Phương hướng nhiệm vụ 5 năm (2011-2015):
“Phát triển nông nghiệp toàn diện hiệu quả, bền vững theo hướng công
nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát huy ưu thế của nền nông nghiệp nhiệt đới
gắn với giải quyết tốt vấn đề nông dân, nông thôn.”
Nghị quyết 26/NQ-TƯ (về nông nghiệp, nông
dân, nông thôn) mục tiêu: “Không ngừng nâng cao đời sống vật
chất tinh thần của dân cư nông thôn, hài hòa giữa các vùng, tạo sự
chuyển biến nhanh hơn ở các vùng còn nhiều khó khăn; nông dân được đào
tạo có trình độ sản xuất ngang bằng với các nước tiên tiến trong khu
vực và đủ bản lĩnh chính trị, đóng vai trò làm chủ nông thôn mới…”
Sau Đổi Mới, nông dân đã đưa đất nước từ thiếu đói trở thành nước xuất
khẩu gạo thứ nhì thế giới. Nhưng có nghịch lý là từ đó đến nay cuộc
sống của nông dân ngày càng khốn khó. Đặc biệt là nông dân vùng đồng
bằng sông Cửu Long, vựa lúa lớn nhất nước, chưa bao giờ sống khổ như
bây giờ: Được mùa rớt giá, càng làm càng lỗ; mỗi năm buộc phải đóng từ
30 đến 40 loại phí; học vấn thấp nhất; nhắm mắt xếp hàng cho người Đài
Loan, Hàn Quốc chọn vợ để cứu gia đình; sang Campuchia bán thân; đóng
phí rất nặng để đi xuất khẩu lao động, bị đánh đập, cưỡng hiếp. Mới
đây, báo Tuổi Trẻ đăng tình cảnh lao động Việt Nam cư trú bất hợp pháp
ở Malaysia phải trốn chui trốn nhũi vô cùng thê thảm. Nhiều năm qua,
nông dân bị thu hồi đất không được đền bù thỏa đáng, phải cơm đùm cơm
nắm đi khiếu kiện lên quận, rồi lên tỉnh, lên Trung ương, nằm chờ chực
ngoài vườn hoa, trên vĩa hè và bị đuổi đánh tàn tệ.
Cuối cùng tức nước vỡ bờ, lúc đầu là tự thiêu, tự tử để tỏ sự phẫn uất
một cách bất lực, sau đó là nổ súng hoa cải để cảnh báo nỗi bất bình,
nay thì nổ súng sát thương. Những phát súng của Đặng Ngọc Viết không
phải nhằm bắn vào người có oán thù với riêng anh mà có ý nghĩa biểu
tượng bắn vào chế độ ruộng đất bất công, phi lý, chống lại lợi ích giai
cấp nông dân của anh.
Tại sao những mục tiêu cao đẹp từ các nghị quyết của Đảng không thể trở
thành hiện thực mà ngược lại? Những nhà khoa học và cán bộ quản lý gắn
bó với nông dân đã phát hiện những nguyên nhân chủ yếu nhưng không được
lắng nghe. Gần 20 năm, giáo sư Võ Tòng Xuân nhiều lần lặp đi lặp lại
câu hỏi “Bao giờ nông dân mới giàu?” Và ông trả lời, nông dân không thể
thoát nghèo, bởi đầu ra của hạt lúa bị Hiệp hội lương thực độc quyền
thao túng. Giáo sư Đào Thế Tuấn nói: “Nghịch cảnh thay nông dân từng là
quân chủ lực của cách mạng giải phóng dân tộc, cũng là người lặng lẽ âm
thầm khởi xướng công cuộc đổi mới, nhưng lại ít được hưởng lợi nhất sau
đổi mới!”; và “nông dân thiếu chủ quyền về đất đai, mất đất mà không có
ai bênh vực”; và “Đáng lo thay, nông dân là bộ phận yếu thế nhất trong
xã hội, không có quyền mặc cả trên thị trường không được tham gia quyết
định giá cả nông sản, vì thiếu nghiệp đoàn nông dân” (báo Nông Nghiệp
Việt Nam xuân Tân Mão). Nguyên chủ tịch tỉnh An Giang, ông Nguyễn Minh
Nhị phân tích nguyên nhân các chỉ tiêu không đạt được, đã cho rằng:”
Nói những điều to tát như tạo nền kinh tế bền vững, tái cấu trúc, tăng
GDP… không bằng có những chủ trương, quyết sách, hành động sát thực tế
để nông dân có đất canh tác, có đời sống ấm no, sung túc bền vững”. Ông
phân tích “Thời kháng chiến chúng tôi, những cán bộ, đảng viên cùng với
nông dân có chung một lợi ích. Sau khi cầm quyền, chúng tôi với nông
dân bắt đầu có sự phân chia, “tuy một mà hai”. Sự phân chia dễ thấy là
chúng tôi – tức chính quyền bắt đầu ra lệnh, ngay như tổ chức Đảng, các
đoàn thể cũng ra lệnh được. Nông dân từ chỗ là chủ sở hữu đất, chủ sở
hữu ruộng, sau khi cải tạo xã hội chủ nghĩa thì đất là sở hữu nhà nước…
Có độc lập rồì bỗng dưng mất hết hai cái quyền sống còn là quyền sở hữu
ruộng đất và quyền sản xuất… Rồi họ dắt díu nhau lên Sài Gòn, Bình
Dương làm công nhân, lại tiếp tục bơ vơ giữa các khu công nghiệp, vắt
sức với đồng lương bèo bọt...”. Mang nỗi niềm của người mắc nợ nông
dân, ông đi Đài Loan, Malaysia, Thái Lan để quan sát và ngạc nhiên kêu
lên: “Nhìn cách họ tổ chức sản xuất nông nghiệp mà phát thèm: Nhà nước,
nhà nông, nhà doanh nghiệp, nhà khoa học phối hợp rất chặt chẽ, trong
đó nhà nông ở vị trí trung tâm, được nhà nước và doanh nghiệp lo cho từ
sản xuất tới tiêu thụ sản phẩm. Thái Lan có công ty tổ chức sản xuất
nông nghiệp lo cho cả đầu vào cả đầu ra. Chính phủ hỗ trợ chính sách
rất rõ ràng”(báo Pháp Luật TP HCM xuân Tân Mão). Tiến sĩ Đặng Kim Sơn
Viện trưởng Viện Nghiên cứu Nông nghiệp cho rằng “Nông dân, nông thôn
bị lấy đi quá lớn so với được trả lại”. Mới đây, trên báo Nông nghiệp
Việt Nam, nhà văn của nông dân Nguyễn Khắc Trường, tác giả “Mảnh đất
lắm người nhiều ma” nổi tiếng, có bài viết về tình trạng nông dân ngày
nay. Bài viết có những điểm rất đáng quan tâm: Nông dân xưa chất phác
nền nếp lắm. Làng xóm xưa thanh bình lắm. Nông thôn bây giờ chẳng những
nghèo về vật chất mà còn nghèo tinh thần. Nay không chỉ có trộm cướp mà
còn có người nghiện hút, tình làng nghĩa xóm phai nhạt. Cái gốc của
nông dân là ruộng đất mà giờ người ta không còn yêu quý đất nữa! (Thực
ra họ không còn yêu đất chỉ vì đất không còn là của họ nữa mà là của
“toàn dân”!). Ông so sánh với vài nước xung quanh và cho rằng nông dân
Trung Quốc khổ hơn ta, nhà cửa họ lụp xụp hơn, mặt họ sầu não hơn.
Nhưng nông dân Thái Lan thì sướng hơn, giàu có hơn nông dân ta. Ông kết
luận: “Nói theo nghĩa nào đó nông dân chưa thực sự bước ra khỏi vũng
bùn!”
Hơn nửa thế kỷ trước, nhà thơ cách mạng Nguyễn Đình Thi đã tự hào viết
câu thơ: “Nước Việt Nam từ máu lửa, Rũ bùn đứng dậy sáng lòa!” Đất nước
của hơn 90% nông dân ngày ấy sáng lòa, bởi họ đã rũ bùn đứng dậy. Cớ
sao sau 68 năm họ phải trở lại vũng bùn?!
4. KHOẢNG CÁCH GIÀU NGHÈO TĂNG NHANH THỨ 2 CHÂU Á !
Báo cáo chính trị ĐH 11: “Xây dựng xã hội dân chủ, kỷ cương, đồng thuận, công bằng,văn minh.” Và “Có chính sách và các giải pháp phù hợp nhằm hạn chế phân hóa giàu nghèo, giảm chênh lệch mức sống giữa nông thôn và thành thị.”
Tuy nhiên, sau Đại hội 11 khoảng cách giàu nghèo đã tăng tốc. Hai giai
cấp lớn của xã hội là công nhân và nông dân chính là nguồn bổ sung cho
số người nghèo đang phình to này.Theo Tổng cục Thông kê năm 2008 khoảng
cách giàu nghèo là 8,9 lần; năm 2009 tăng lên 9,2 lần. Gần đây báo chí
phát hiện nhiều chuyện “lương khủng” ở các tập đoàn, công ty nhà nước.
Vụ lương khủng ở TP HCM khoảng cách thu nhập của cán bộ lãnh đạo và
công nhân hơn 200 lần. Dư luận cho rằng vụ này chỉ là phần nổi của tảng
băng chìm.
Trong những năm kinh tế đất nước sa sút, số người siêu giàu (có tài sản
30 triệu USD) vẫn cứ tăng nhanh: Năm 2010 có 100 người; năm 2011 tăng
lên 170 người nhanh thứ hai châu Á. Ngày 15-9-2013, nhiều tờ báo đưa
tin: Công ty tư vấn tài sản Wealth-X và Ngân hàng Thụy Sĩ UBS cho biết:
“Mặc cho nền kinh tế Việt Nam đang lâm vào khó khăn, số người siêu giàu
của nước này vẫn tăng gần 15% so với năm trước, từ 170 lên 195 người
với tổng tài sản 20 tỉ USD. Trong khi đó Việt Nam có khoảng 8,1 triệu
dân nghèo đói phải tìm đến cái chết để thoát khổ đau.”
Xin nêu hai trường hợp người nghèo đi tìm cái chết mà nguồn tin trên đã
nói đến:
Tháng 4-2012, chị Lê thị Ngọc Nhãn ở khóm 2, phường 1, TP Cà Mau, trước
khi tự tử đã gửi cho Trung tá Diện bức thư, có đoạn: “Sau khi cháu chết
rồi, xin chú giúp cho các con của cháu được vào cô nhi viện. Cháu xin
đội ơn chú đời đời”.
Tháng 5-2013, chị Nguyễn thị Mỹ Nhân, 48 tuổi, ở xã An Xuyên, TP Cà
Mau, trước khi treo cổ, đã viết bức thư gửi chính quyền: “Xin các cấp
chính quyền thấu hiểu hoàn cảnh không có lối thoát của gia đình chúng
tôi hiện nay, đồng ý cấp sổ hộ nghèo cho chồng con tôi có thể sống
những ngày còn lại”.
Trong bài nói về xây dựng Đảng hồi tháng 2-2012, Tổng bí thư Nguyễn Phú
Trọng nói: “Bây giờ trong Đảng cũng có sự phân hóa giàu nghèo, có người
giàu lên rất nhanh, cuộc sống cách xa người lao động; liệu rồi người
giàu có nghĩ giống người nghèo không? Mai kia Đảng này là Đảng của ai?
Có còn giữ được bản chất là đảng cách mạng của giai cấp công nhân, của
nhân dân lao động, của dân tộc không?”.
Thưa Tổng bí thư, cứ nhìn tình cảnh của hai giai cấp công nhân và nông
dân và các chính sách làm cho họ bần cùng, chắc không khó tìm câu trả
lời!
5. ĐẠO ĐỨC XÃ HỘI BĂNG HOẠI CHƯA TỪNG CÓ
ĐH 11 quyết định : “Xây dựng nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc; gia đình ấm no tiến bộ,hạnh phúc;con người phát triển toàn diện về trí tuệ,đạo đức,thể chất, năng lực sáng tạo, ý thức công dân, tuân thủ pháp luật” (Văn kiện trang 105).
Tuy nhiên ba năm qua đạo đức tiếp tục băng hoại ngày càng dữ dội! Hàng
ngày báo đưa tin chém giết, trộm cướp, cưỡng hiếp xảy ra khắp mọi nơi.
Người ta chém giết nhau chỉ vì những lý do lãng xẹt. Đáng lo nhất là
tình trạng con cháu đánh đập, chém giết cha mẹ ông bà, anh em, vợ chồng
giết nhau. “Đinh tặc” rải đinh đánh bẫy người đi xe gắn máy, để vá xe,
bán lốp,vỏ xe với giá cắt cổ. Thanh, thiếu niên ném đá lên tàu hỏa, lên
ô tô như thú vui. Mới đây một nhà phê bình có bài viết tựa đề “Người
Việt hung hãn”. Có những hiện tượng bất thường đang nãy sinh: Người
ta “tự xử”, bởi không còn tin khả năng quản lý của chính quyền, cũng
không tin công lý từ tòa án! Bắt được kẻ trộm chó, cả xóm ra tay tự xử
bằng gậy gộc. Mới đây, xã Vĩnh Thành, huyện Châu Thành, tỉnh An Giang
vừa có “sáng kiến” lập rào làng, làm bốn cổng để chống trộm!
Nhà văn Nguyễn Khải người đầu tiên phát hiện tệ nói dối đang phát triển
trong xã hội. Từ đó đến nay tình trạng nói dối bùng lên như một đại
dịch, lan tràn từ trong Đảng tới các cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế,
các đoàn thể, nay nhiễm vào trẻ con. Tại diễn đàn kinh tế mùa Thu đang
diễn ra ở Huế, nhiều tham luận nói về tệ báo cáo láo khiến không thể
biết đúng “bệnh”: nợ xấu bao nhiêu, thất nghiệp bao nhiêu, GDP của các
tỉnh có tăng thực vậy không. Một trung tâm xã hội học vừa công bố kết
quả điều tra: Trẻ học cấp 1 có tỉ lệ nói dối là 22%; trẻ ở cấp 2 có tỉ
lệ nói dối 50%; cấp 3 là 64%; sinh viên đại học là 80%! Có thể hình
dung được, đội ngũ cán bộ tương lai sẽ vượt xa cha anh về tài nói dối!
Có người giải thích đây là mặt trái của cơ chế thị trường. Nên nhớ
rằng, trước khi thực hiện cải tạo xã hội chủ nghĩa, đất nước ta đã từng
sống trong cơ chế thị trường.
Dân tộc ta nổi tiếng hiền hòa. Ông cha ta từng “lấy đại nghĩa mà thắng
hung tàn”, “lấy chí nhân mà thay cường bạo”. Thời hai cuộc kháng chiến,
nhà nhà đêm không cài cửa, ra ngõ gặp anh hùng. Một dân tộc như vậy,
nguyên nhân nào đã biến thành “ra ngõ gặp trộm cướp, giết chóc”?
Triết gia Immanuel Kant cho rằng “Tự do là cơ sở tồn tại của quy luật
luân lý, còn quy luật luân lý là cơ sở nhận thức của tự do” (Phê phán
lý tính thực hành (Đạo đức học), Bùi Văn Nam Sơn dịch và chú giải, nxb
Tri thức. chú thích ở trang 2-3). Có lẽ nên xem lại phương thức tổ chức
quản lý xã hội đang có những gì bất cập so với các nước văn minh?
6. GIÁO DỤC TIẾP TỤC TỤT HẬU
ĐH 11 quyết định : “Phát triển giáo dục là quốc sách hàng đầu.Đổi mới căn bản toàn diện nền giáo dục Việt Nam theo hướng chuẩn hóa, hiện đại hóa, xã hội hóa, dân chủ hóa và hội nhập quốc tế, trong đó đổi mới cơ chế quản lý giáo dục , phát triển đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý là khâu then chốt” (Văn kiện trang 130, 131).
Cách đây 20 năm nền giáo dục Việt Nam đã được nhận diện những điểm
không bình thường: Trường chuyên, lớp chọn; thi cử phức tạp; nhồi nhét,
không chú trọng rèn luyện tư duy sáng tạo; học thuộc lòng các bài mẫu;
dạy thêm học thêm lu bù; sách giáo khoa in lại liên tục, nhưng nội dung
không đổi mới; chất lượng giáo viên mỗi năm thêm sa sút; lương giáo
viên không đủ sống... Có nhiều cấp ủy Đảng chỉ thị ngành giáo dục phải
soạn giáo án tuyên truyền chủ trương chính sách: đưa vào chương trình
phổ thông 13 luật thuế, luật phòng chống tham nhũng...
Nhiều cuộc hội thảo huy động trí tuệ các nhà giáo dục góp ý xây dựng.
Nhiều nhà giáo dục giàu tâm huyết và trí tuệ như Hoàng Tụy, Hồ Ngọc
Đại, Văn Như Cương… phân tích mổ xẻ ung nhọt của ngành giáo dục, đề
xuất nhiều kiến nghị như: Khuyến khích sáng tạo; coi trọng óc tưởng
tượng; công bằng , dân chủ trong giáo dục; tôn trọng cá tính học sinh;
Bắt buộc cấp tiểu học, tiến tới trung học và mở cửa đại học; chú trọng
bồi dưỡng nhân tài… Tuy nhiên giáo dục cứ như cỗ xe tụt dốc! Dù cho
được tăng tỉ lệ đầu tư, nhưng hiệu quả thì xuống thấp. Chất lượng Đại
học Việt Nam không được quốc tế công nhận.
Càng ngày càng có nhiều bậc cha mẹ cố tìm cách cho con đi học ở nước
ngoài, ban đầu chỉ đi học cấp đại học, nay đưa đi học nước ngoài ngay
từ cấp phổ thông. Xã hội đã quen với cụm từ “tị nạn giáo dục” nói về
tình trạng này.
Nguyên Bộ trưởng Trần Hồng Quân nói: “Nền giáo dục hiện nay có nhiều
lỗi hệ thống”. Giáo sư Văn Như Cương nói: “Tính dối trá tràn ngập nền
giáo dục”…
Mới đây, Diễn đàn Kinh tế thế giới công bố bản báo cáo “Năng lực cạnh
tranh toàn cầu 2013-2014” thực hiện ở 148 nước. Kết quả xếp hạng các
hạng mục lớn của báo cáo cho thấy: Về chất lượng giáo dục phổ thông và
đại học Việt Nam đều thua kém các nước trong khu vực Châu Á. Ở bậc tiểu
học Việt Nam có tỉ lệ đi học cao nhưng chất lượng giáo dục thua kém
nhiều nước trong khối ASEAN. Theo ông Trịnh Ngọc Thạch, phó chủ nhiệm
Ủy ban Văn hóa, Giáo dục Thanh niên, Thiếu niên và Nhi đồng của Quốc
hội thì đưa trẻ đến trường nhiều chưa nói lên được chất lượng tốt. Nói
chất lượng phải tính mấy yếu tố: Thứ nhất là chương trình có tốt không.
Thứ hai là giáo viên có tốt không. Thứ ba là cơ sở vật chất có tốt
không. Cả ba cái này chúng ta đều yếu. Bà Nguyễn Thị Bình nguyên phó
chủ tịch nước, nguyên Bộ trưởng Giáo dục năm 1976 nói: “Các tổ chức
quốc tế đều đánh giá, trong chiến tranh, Việt Nam là tấm gương về giáo
dục.Song bây giờ giáo dục Việt Nam hầu như xếp hạng chót. Có tổ chức
còn đánh giá giáo dục Việt Nam kém hơn cả Campuchia, Lào.”
Có hai vấn đề cốt lõi: Một là, mấy chục năm qua, thầy giáo không chỉ bị
đãi ngộ vật chất quá thấp kém mà quan trọng hơn, trong một xã hội chính
trị hóa, người thầy không còn được coi trọng như trong xã hội dân sự
trước kia. Nấc thang giá trị của thầy giáo ở dưới các cán bộ Đảng và
tất cả các cán bộ đoàn thể. Hai là nền giáo dục Việt Nam bị chính trị
hóa sâu sắc, bị chỉ đạo bởi ý thức hệ, nhằm đào tạo ra những công cụ
trung thành phục vụ chế độ. Giáo điều, triệt tiêu tự do tư tưởng, cắt
cánh tưởng tượng sáng tạo, không tôn trọng cá tính... đều xuất phát từ
đó. Sản phẩm của một nền giáo dục như vậy sẽ không thể hội nhập được
với nhân loại hiện đại và chắc cũng không thể là nguyên khí quốc gia
trong sự nghiệp hiện đại hóa. Trong thời đại toàn cầu hóa, dù quan tâm
đến thực tế đất nước, nhưng không nên tạo ra một nền giáo dục dị biệt
với thế giới. Giáo dục phải tuân theo các giá trị phổ quát của nhân
loại, tự do dân chủ, bình đẳng. Những nước đi sau như chúng ta rất cần
tham khảo, học theo các nền giáo dục tiên tiến.
7. “VÌ SAO CÔNG TÁC XÂY DỰNG ĐẢNG ĐƯỢC TRUNG ƯƠNG RẤT COI TRỌNG, ĐÃ CÓ NHIỀU NGHỊ QUYẾT, CHỈ THỊ RẤT ĐÚNG, RẤT HAY, NHIỀU CUỘC VẬN ĐỘNG SÂU RỘNG, NHƯNG KẾT QUẢ VẪN CHƯA ĐẠT YÊU CẦU ?... VƯỚNG MẮC CHÍNH LÀ Ở CHỖ NÀO ?” (TBT Nguyễn Phú Trọng).
Cương lĩnh: “Để đảm đương được vai trò lãnh đạo, Đảng phải vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức, thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn, ra sức nâng cao trình độ trí tuệ, bản lĩnh chính trị phẩm chất, đạo đức và năng lực lãnh đạo”.
Chiến lược
phát triển kinh tế, xã hội 2011-2020, Chương V, mục 3:”Thực hiện
kiên trì, kiên quyết, có hiệu quả cuộc đấu tranh phòng, chống tham
nhũng, lãng phí là nhiệm vụ rất quan trọng, vừa cấp bách vừa lâu dài
của công tác xây dựng Đảng”.
Sau một năm, ngày 26-12-2011, Hội nghị TƯ 4 nhận định: bình, tự phê
bình “Tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, tệ
tham nhũng,lảng phí, hư hỏng trong một bô phận không nhỏ cán bộ, đảng
viên, kể cả ở cấp cao, chưa được đẩy lùi mà thậm chí ngày càng có chiều
hướng nghiêm trọng hơn, làm xói mòn niềm tin đối với Đảng”. Hội nghị TƯ
4 đề ra “những việc cần và có thể làm ngay” là tiến hành trong toàn
Đảng tự giác, gương mẫu kiểm điểm, phê bình, tự phê bình”.
Sau gần hai năm thực hiện nghị quyết TƯ 4, tình hình tham nhũng không
giảm mà đang tăng lên và diễn biến rất phức tạp, đáng lo ngại:
- Ngày 5-12- 2012 Tổ chức Minh bạch Quốc tế (Transparency
International) xếp Việt Nam về kết quả chống tham nhũng tụt 11 bậc,
xuống 123/182 nước.
- Từ tháng 9-2012 đến 3-2013 Tổ chức Minh bạch quốc tế tổ chức khảo sát
và kết luận: 55% người dân Việt Nam cho rằng tham nhũng đang tăng, tham
nhũng nghiêm trọng xảy ra ở các cơ quan chức năng, ở lĩnh vực đất đai.
Điều đáng lo là chỉ có 38% người dân Việt Nam nói mình dám tố cáo tham
nhũng, tỉ lệ thấp nhất so với người dân trong khu vực ASEAN (bình quân
là 63%). Tại sao vậy? Rất dễ hiểu thôi, xin kể 2 vụ việc trong hằng
trăm vụ việc như thế: Theo báo Người Cao tuổi: Ở Ninh Bình có ông cựu
chiến binh Đinh Văn Phiêu tố giác ông Ủy viên TƯ, Bí thư tỉnh Ninh Bình
Đinh văn Hùng, tham nhũng, buôn trống đồng. Lập tức ông bị bắt đưa ra
tòa xử 5 năm tù giam vì tội vu khống. Ông Lê Đăng đảng viên 60 tuổi
Đảng tố cáo Thành phố Biên Hòa làm trái Quyết định 227 của Thủ tướng về
quy hoạch, lập tức ông bị khai trừ Đảng. Người dân thường cứ nhìn vào
đó mà liệu giữ mình!
- Mới đây các cơ quan thanh tra Việt Nam khảo sát cho biết có 70% doanh
nghiệp chủ động đưa hối lộ, trong 20 vụ tham nhũng lớn nhất thì 50% xảy
ra ở doanh nghiệp nhà nước.
- Ngày 18-9-2013, trong cuộc họp UBTV Quốc hội, chủ tịch Nguyễn Sinh
Hùng nói “Không tham nhũng lấy tiền đâu mà chạy chức?”, và ông đặt câu
hỏi gây chấn động dư luận xã hội: “Có tham nhũng trong lực lượng chống
tham nhũng không?”
Cuộc họp cho rằng rất cấp thiết phải trả lời câu hỏi: Vì sao tham nhũng
không giảm mà cứ tiếp tục tăng?
Tại Hội nghị TƯ 5, TBT Nguyễn Phú Trọng đặt ra một loạt câu hỏi để tìm
câu trả lời: “Phải chăng do các cấp ủy, chính quyền và người đứng đầu
chưa phát huy đầy đủ ý thức và bản lĩnh chính trị, tinh thần trách
nhiệm trong chỉ đạo và tổ chức thực hiện? Do sức chiến đấu của nhiều tổ
chức Đảng quá yếu? Do sự kém tu dưỡng rén luyện của của một bộ phận cán
bộ, đảng viên, công chức, viên chức? Do chưa phát huy mạnh mẽ vai trò
giám sát của nhân dân, của công luận? Do những bất cập trong việc ban
hành, thực thi các văn bản quy phạm pháp luật? Do mô hình tổ chức và
hoạt động của Ban chỉ đạo phòng chống tham nhũng chưa phù hợp? Do sự
yếu kém, tiêu cực trong công tác phát hiện và xử lý các vụ tham nhũng
lãng phí?”
Các câu hỏi của TBT Nguyễn Phú Trọng đều chính xác, tuy nhiên chưa phải
là câu hỏi chủ yếu nhất cần phải đặt ra. Tại Hội nghị TƯ 4, TBT Nguyễn
Phú Trọng nói: “Đặc biệt, có một câu hỏi lớn, rất day dứt, trăn trở lâu
nay, cần được trả lời cặn kẽ là: “Vì sao công tác xây dựng Đảng được
Trung ương rất coi trọng, đã có nhiều nghị quyết, chỉ thị rất đúng, rất
hay, nhiều cuộc vận động sâu rộng, nhưng kết quả vẫn chưa đạt yêu
cầu?.....Vướng mắc chính là ở chỗ nào?”
Đây mới thực là câu hỏi rất lớn, do đó chúng tôi cho rằng phải tìm câu
trả lời theo cách mà TBT Nguyễn Phú Trọng nhiều lần nhấn mạnh là phải
“đột phá”!
Xin thưa với Tổng bí thư: Có thể đoan chắc rằng, trong lịch sử không có
một đường lối, chính sách nào rất đúng, rất hay lại được vận động sâu
rộng mà đi tới thất bại cả! Hay, đúng thì phải sát thực tế, tạo ra được
thiên thời, địa lợi, nhân hòa. Bất cứ giải pháp nào đưa tới thất bại,
hơn nữa lại là thất bại rất nhiều lần, kéo dài hàng chục năm thì cần
phải thực sự cầu thị, để nhận thức rằng đó là một giải pháp sai!
Nhà nước ta đã ký kết tham gia Công ước Liên Hiệp Quốc về chống tham
nhũng từ 1-7-2009. Công ước này là tập trung trí tuệ và kinh nghiệm của
nhiều quốc gia tiên tiến đúc kết nên. Trong đó, không có kinh nghiệm
nào chống tham nhũng thành công từ tự phê bình, phê bình cả!
Công ước này đặt 2 điều đầu tiên cho chính sách và thực tiễn chống tham
nhũng là:
(1) “Thúc đẩy sự tham gia của xã hội và thể hiện các nguyên tắc của chế
độ pháp quyền”.
(2) Về “cơ quan phòng chống tham nhũng” thì điều đầu tiên là có “sự độc
lập cần thiết” để “thực hiện chức năng của mình một cách hiệu quả và
không chịu bất kỳ sự ảnh hưởng trái pháp luật nào”.
Tiếc thay cả hai vấn đề quan trọng nhất của Công ước này, đều không
được Việt Nam vận dụng!
Câu hỏi của Chủ tịch Nguyễn Sinh Hùng sẽ được trả lời không khó khăn
nếu tổ chức Đảng và cơ quan Nhà nước đều phải đặt dưới pháp luật.
Trước khi kiến nghị các giải pháp khắc phục tình trạng khủng hoảng toàn
diện kể trên, xin trích dẫn ý kiến của Engels đại diện cho K.Marx viết
lời tựa bản Tuyên ngôn tiếng Đức năm 1883: “Trong mỗi thời đại lịch sử,
sản xuất kinh tế và cơ cấu xã hội ̶̶ cơ cấu này tất yếu
phải do sản xuất kinh tế mà ra – cả hai cái đó cấu thành cơ sở của lịch
sử chính trị và lịch sử tư tưởng của thời đại ấy”. Nền sản xuất kinh tế
đa thành phần phát triển đã làm cho chiếc áo toàn trị quá chật, đòi hỏi
phải thay bằng chiếc áo dân chủ.
B. KIẾN NGHỊ CÁC GIẢI PHÁP
1. Đại hội 6 chủ trương “Đổi mới toàn diện bắt đầu từ đổi mới kinh tế”. Đại hội 11 quyết định: “KIÊN TRÌ VÀ QUYẾT LIỆT THỰC HIỆN ĐỔI MỚI. ĐỔI MỚI CHÍNH TRỊ PHẢI ĐỒNG BỘ VỚI ĐỔI MỚI KINH TẾ”…
Thật đáng tiếc là cho đến nay thể chế, hệ thống chính trị nước ta hầu
như vẫn giữ y nguyên khuôn mẫu của chủ nghĩa xã hội kiểu xô viết. Nền
móng tự do dân chủ đã có từ Tuyên ngôn độc lập và Hiến pháp 1946 đã
không được thực hiện, phát huy. Các quyền tự do cơ bản như tự do báo
chí, tự do ngôn luận, tự do hội họp và lập hội, tự do biểu tình đều
khất “nợ” nhân dân suốt 68 năm! Đại hội 6 đã trả lại cho nhân dân quyền
tự do kinh tế bị tước mất sau cải tạo xã hội chủ nghĩa. Nhờ đó mà người
Việt Nam năng động sáng tạo hẳn lên, vượt qua đói nghèo, đạt được mức
sống trung bình thấp. Tuy nhiên do chưa được đổi mới chính trị, nhân
dân chưa có quyền tự do xây dựng một nhà nước pháp quyền thể chế hóa
các quyền tự do. Không có nhà nước pháp quyền đúng nghĩa thì tự do kinh
tế không được bảo trợ về pháp lý, bị vướng mắc bởi thể chế chính trị
lạc hậu thao túng , chi phối, làm suy giảm năng lực phát triển. Tình
trạng ốm yếu của nền kinh tế Việt Nam là vì vậy. Không có tự do chính
trị cũng hạn chế tự do văn hóa, không thể tiếp thu được tinh hoa văn
hóa của nhân loại, thậm chí không phân biệt thuần phong mỹ tục với hũ
tục. Nhiều cán bộ chính trị tự cho mình quyền kiểm duyệt, cấm đoán tác
phẩm của các nghệ sĩ bậc thầy. Thiếu tự do chính trị là nguyên nhân gây
hạn chế đồng thuận, chia rẽ dân tộc, bất ổn xã hội. Tình trạng khủng
hoảng toàn diện của đất nước là báo động đỏ cho sự chậm trễ đổỉ mới
chính trị.
Có người lo ngại đổi mới chính trị sẽ gây ra nguy cơ bất ổn xã hội, đe
dọa quyền lãnh đạo của Đảng cộng sản, nói như vậy là không tin nhân
dân, hoặc coi nhân dân là “thần dân”. Đổi mới chính trị chính là tin
nhân dân, tôn trọng nhân dân, cùng nhân dân thảo luận, lựa chọn, xây
dựng một thể chế thực sự của dân, do dân, vì dân, điều mà Đảng cộng sản
thường nêu lên như tâm nguyện cao cả nhất từ những ngày đầu cách mạng.
Đổi mới chính trị sẽ loại bỏ được nguyên nhân đã làm cho các nghị quyết
của Đảng suốt nhiều nhiệm kỳ cứ phải lặp đi lắp lại:” Quyền làm chủ của
nhân dân ở một số nơi một vài lĩnh vực còn bị vi phạm. Việc thực hành
dân chủ còn mang tính hình thức” (Văn kiện ĐH 11, trang 171). Được như
vậy thì uy tín của Đảng, tình trạng nhân dân mất niềm tin vào Đảng sẽ
được ngăn chặn.
2. KHÔNG NÊN THÔNG QUA DỰ THẢO HÍÊN PHÁP NẾU CHƯA ĐẠT YÊU CẦU ĐỔI MỚI CHÍNH TRỊ!
Sửa đổi Hiến pháp 1992 chính là cơ hội vàng để đổi mới chính trị! Do
đó, không nên tùy tiện phủ quyết những ý kiến không hợp với quan điểm
bảo thủ, giáo điều mà cần tổ chức tranh luận công khai trên mọi cơ quan
truyền thông.
Kiến nghị 72 nhằm xây dựng bản Hiến pháp bảo đảm toàn vẹn lãnh thổ,
phát triển bền vững đất nước, mang lại tự do, hạnh phúc cho các thế hệ
hiện tại và tương lai, gồm 7 điểm quan trọng:
1- Lời nói đầu phải làm rõ mục tiêu đảm bảo an toàn, tự do hạnh phúc
cho mọi người dân, hạn chế sự lạm quyền, hướng đến hạnh phúc của các
thế hệ tương lai. Quyền lập hiến phải thuộc về nhân dân. Cần nhấn mạnh
nguyên tắc chủ quyền nhân dân, tôn trọng ý chí dân tộc. Do đó không nên
định trước vai trò lãnh đạo nhà nước và xã hội cho một tổ chức chính
trị. Chủ thể nào lãnh đạo xã hội sẽ do nhân dân tin cậy bầu chọn.
2 - Mục đích thành lập Nhà nước là để bảo vệ các quyền đương nhiên của
con người. Dự thảo có nhiều điểm không phù hợp với các chuẩn mực phổ
quát ở các Công ước Liên Hiệp Quốc mà nhà nước ta đã gia nhập. Cụm từ
“theo quy định của pháp luật” lâu nay mở đường cho việc nhân danh Hiến
pháp đàn áp công dân , cần phải khắc phục.Do đó, Hiến pháp nên quy định
thành lập một Ủy ban quốc gia về quyền con người.
3 - Cần công nhận quyền sở hữu tư nhân, tập thể, cộng đồng đối với đất
đai, để chống tham nhũng, lộng quyền, móc ngoặc giữa cán bộ nhà nước và
doanh nhân gây thiệt hại cho nhân dân, đặc biệt là nông dân, gây bất ổn
xã hội.
4 - Thực hiện nhà nước pháp quyền, tam quyền phân lập.
5 - Lực lượng vũ trang trung thành với Tổ quốc và nhân dân, nhằm bảo vệ
toàn vẹn lãnh thổ quốc gia, yên bình cho nhân dân. Đó cũng chính là mục
tiêu chính trị của Đảng cộng sản đặt ra cho mình từ khi thành lập. Đảng
cộng sản là một thành phần trong nhân dân, không nên quy định lực lượng
vũ trang trung thành với Đảng cộng sản.
6 - Bảo đảm quyền phúc quyết Hiến pháp của nhân dân.
7 - Thời gian lấy ý kiến toàn dân đến kéo dài hết năm 2013, khuyến
khích việc tham khảo, so sánh, thảo luận công khai để xây dựng bản Hiến
pháp phù hợp nhất cho quốc gia.
Bản Kiến nghị 72 đã được 15 đại diện trình lên Ban soạn thảo Hiến pháp
của Quốc hội. Hơn 14000 người ký tên hưởng ứng, trong đó có hàng trăm
giáo sư trong, ngoài nước, hàng trăm đảng viên lão thành, cựu chiến
binh. Thế nhưng , 700 tờ báo và cả hệ thông truyền hình phát thanh
không đưa tin, không tranh luận công khai sòng phẳng. Tất cả cơ quan
truyền thông nhà nước đơn phương bóp méo, xuyên tạc, phê phán, nhưng
không nêu đích danh Kiến nghị 72 mà coi đó là lập luận của một “lực
lượng thù địch” vô hình, một “bọn xấu” không có địa chỉ! Thật đáng
tiếc, cách làm không minh bạch như vậy lại có thể xảy ra ở một đất nước
đã ký kết các Công ước của Liên Hiệp Quốc, đã từng là ủy viên không
thường trực của Hội đồng Bảo an!
Một số người cho rằng việc góp ý không có vùng cấm, nhưng không được
lợi dụng góp ý để vi phạm những vấn đề thuộc về nguyên tắc cơ bản! Xin
hỏi những điều gì được gọi là “nguyên tắc cơ bản”? Quyền lãnh đạo của
Đảng chăng? Hay “tam quyền phân lập” chăng? Không đúng! Nguyên tắc cơ
bản phải là đảm bảo thực hiện cho được mục tiêu “của dân, do dân, vì
dân” và tất cả phải thượng tôn pháp luật. Do đó, nếu chưa thống nhất
được thì nên dừng lại không nên vội vàng thông qua bản dự thảo Hiến
pháp còn quá nhiều bất cập, nên có thêm thời gian và không gian dân chủ
để thảo luận. Bởi vì nếu vội vàng ban hành bản Hiến pháp không đạt các
tiêu chuẩn tự do dân chủ phổ quát cũng tức là chưa đạt yêu cầu “đổi mới
chính trị phải đồng bộ với đổi mới kinh tế” mà ĐH 11 đã đề ra và hậu
quả không mong muốn sẽ xảy ra cho dân tộc, cũng tức là cho Đảng cộng
sản.
3. ĐIỀU 4, GỢI NHỚ “TRƯỚC MẶT QUẦN CHÚNG, KHÔNG PHẢI TA CỨ VIẾT LÊN TRÁN HAI CHỮ CỘNG SẢN MÀ ĐƯỢC HỌ YÊU MẾN” (HỒ CHÍ MINH).
Đất nước, nhân dân đòi hỏi ĐẢNG TỪ BỎ HÌNH THỨC ĐẢNG TRỊ TRỞ THÀNH ĐẢNG
CẦM QUYỀN TRONG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN, CỦA DÂN, DO DÂN, VÌ DÂN. Phải thực
hiện “bao nhiêu quyền hạn đều của dân” như Hồ Chí Minh đã hứa hẹn, chấm
dứt tình trạng đã kéo dài mấy chục năm nay mà nguyên UV BCT Nguyễn Văn
An đã thẳng thắn và trung thực nhận định: “Bộ Chính trị là vua tập
thể”. Không nên tiếp tục làm cho khẩu hiệu thiêng liêng “tất cả quyền
lực nhà nước thuộc về nhân dân” để rồi Đảng “là lực lượng lãnh đạo nhà
nước” nên cuối cùng quyền lực nhà nước thuộc về Đảng! Trong dân gian đã
lưu truyền công khai những thành ngữ “Đảng cử dân bầu”, “mười năm phấn
đấu, không bằng cơ cấu một giờ”… thật là phản cảm.
Chúng ta đang hội nhập toàn cầu, Hiến pháp của các nước văn minh không
ghi quyền lãnh đạo của một đảng chính trị. Nước ta, từ những ngày cách
mạng còn trứng nước, Đảng chỉ có 5000 đảng viên, Hiến pháp 1946 không
ghi vai trò lãnh đạo của Đảng, nhưng nhân dân vẫn theo Đảng, vì Đảng có
đường lối giành độc lập, tự do. Việc đưa sự độc quyền lãnh đạo của Đảng
vào Điều 4 Hiến pháp đã gây rất nhiều tranh cãi. Nhiều đảng viên cộng
sản từng giữ cương vị ủy viên Trung ương, Bộ trưởng cũng không đồng
tình. Xin đừng vu cho họ tội chống Đảng, hoặc suy thoái chính trị. Tại
sao họ lại chống lại Đảng mà họ đã bỏ gần hết cả đời phục vụ chứ? Bản
thân tôi, một đảng viên 55 tuổi đảng, tôi cảm thấy Điều 4 là sự xúc
phạm lòng tự trọng, tự hào của mình là một đảng viên. Từ khi vào Đảng,
các đảng viên từng tâm niệm “phải yêu dân kính dân thì dân mới kính ta,
yêu ta” và “Trước mặt quần chúng, không phải ta cứ viết lên trán chữ
cộng sản mà được họ yêu mến.”(Hồ Chí Minh, ST,1985, T5, trang 184).
Hiểu theo ý nghĩa của câu ấy thì việc ghi Điều 4 vào Hiến pháp không
phải là ghi hai chữ cộng sản lên trán của Đảng mà chính là ghi lên trán
của dân tộc! Liệu cách áp đặt như vậy có được nhân dân yêu mến hay
không?
4. THẾ NÀO LÀ MỘT NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN? TẠI SAO LẠI KHÔNG CHẤP NHẬN TAM QUYỀN PHÂN LẬP?
Lý do để các nhà lý luận của Đảng không đồng ý tam quyền phân lập là
cho rằng đó là “dân chủ phương Tây”! Khổ quá! Các vị tìm đâu ra thứ dân
chủ phương Đông chứ? Nhà sáng lập “tam dân chủ nghĩa” Tôn Trung Sơn nói
hẳn rằng, dân chủ dân quyền thì phải học phương Tây, bởi vì phương Đông
và Trung Quốc suốt 4000 năm lịch sử chìm đắm trong quân quyền. Đã có
nhiều nước phương Đông thực hiện nhà nước tam quyền phân lập như Nhật,
Hàn quốc…nâng cao quyền dân, hạn chế được tham nhũng, đất nước phát
triển rất nhanh. Chính các nước này đang chìa tay giúp đỡ ta. Ta cứ
công kích tam quyền phân lập là theo Tây, không sợ mất lòng những người
giúp đỡ mình sao?
Tiến sĩ Hồ Bá Thâm trong bài viết “Dân chủ hóa, phân quyền hóa cơ cấu
hệ thống quyền lực Nhà nước theo tư duy pháp quyền biện chứng” đăng
trên tạp chí Nghiên cứu Lập pháp từ năm 2009, đã cảnh báo tệ nạn tham
nhũng, cửa quyền, quan liêu phát triển là do thiếu cơ chế giám sát,
kiềm chế quyền lực, “đó là lỗ hổng và yếu kém nhất trong hệ thống tam
quyền của nhà nước, phải được khắc phục sớm bằng cả nhận thức và thể
chế”. Ông cũng băn khoăn khi “việc thực hiện ba quyền đặt dưới sự lãnh
đạo của Đảng”. Ông cho rằng lẽ ra sự lãnh đạo của Đảng là ở đường lối
và đưa ra quan điểm lớn “Phải làm thế nào để thực hiện cho được quyền
tư pháp độc lập, thượng tôn pháp luật, không chấp nhận bất cứ sự chi
phối nào ngoài pháp luật”. Đến nay, dự thảo Hiến pháp sửa đổi cũng gần
như cũ: “Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân…. do Đảng cộng sản
VN lãnh đạo. Quyền lực nhà nước là thống nhất; có sự phân công, phối
hợp và kiểm soát giữa các cơ quan trong việc thực hiện các quyền lập
pháp, hành pháp, tư pháp”. Tiến sĩ Nguyễn Đăng Hưng có một thắc mắc rất
có lý “đã thống nhất sao lại còn phân công?” Vừa qua, một báo cáo viên
của Ban Tuyên huấn Trung ương xuống giảng giải ở Đảng bộ phường Tân
Kiểng, quận 7, TP HCM đã giải thích: Quyền lực nhà nước thuộc về nhân
dân mà nhân dân là một khối thống nhất, do đó không thể chia cắt, không
thể phân lập! Tại sao các nhà lý luận của Đảng không chịu hiểu rằng,
nhà nước là công cụ để phục vụ nhân dân, do đó nhân dân muốn phân chia
nó thế nào để phục vụ mình tốt hơn là quyền của nhân dân chứ?
Tại sao các chế độ dân chủ tìm đến nhà nước pháp quyền, tam quyền phân
lập? Xin trích dẫn ra đây ý kiến của hai bậc hiền triết của nhân loại:
Từ thời cổ đại Platon quan sát các nhà nước và đi đến nhận định: “Tôi
nhìn thấy sự sụp đổ nhanh chóng của Nhà nước ở nơi nào pháp luật không
có hiệu lực và nằm dưới quyền của một ai đó.Còn nơi nào pháp luật đứng
trên các nhà cầm quyền và các nhà cầm quyền chỉ là nô lệ của pháp luật
thì ở đó tôi nhìn thấy có sự cứu thoát của nhà nước”. Học trò xuất sắc
của ông là Aristote, người được Karl Marx coi là nhà tư tưởng vĩ đại
nhất thời cổ đại, đã cụ thể hóa tư tưởng của thày mình, cho rằng quyền
lực nhà nước phải được chia làm ba lĩnh vực: Lập pháp, hành pháp, tư
pháp. Suốt hơn 2000 năm sau đó những đầu óc vĩ đại của nhân loại không
ngừng khám phá, bổ sung, cụ thể hóa tư tưởng phân quyền. Trong đó J.
Locke và Montesquieu được đánh giá đã ghi hai cột mốc lớn nhất. Cho đến
nay đã có hàng trăm quốc gia dân chủ, giàu mạnh tổ chức nhà nước theo
tam quyền phân lập, dù hình thức có đôi chỗ khác nhau, nhưng điều cơ
bản, phổ quát là không đổi.
Montesquieu cho rằng: “Khi mà quyền Lập pháp và Hành pháp nhập lại
trong tay một người hay một Viện nguyên lão thì sẽ không còn gì là tự
do nữa, người ta sợ rằng chính ông ấy hoặc Viện ấy chỉ đặt ra luật độc
tài để thi hành một cách độc tài. Cũng không có gì là tự do nếu như
quyền Tư pháp không tách rời quyền Hành pháp và Lập pháp. Nếu quyền Tư
pháp được nhập với quyền Lập pháp thì người ta sẽ độc đoán với quyền
sống và quyền tự do của công dân. Quan tòa cũng sẽ là người đặt ra
luật. Nếu quyền Tư pháp nhập với quyền Hành pháp thì quan tòa có sức
mạnh của kẻ đàn áp. Nếu một người hay một tổ chức của quan chức hay của
quý tộc, hoặc của dân chúng năm luôn cả ba quyền lực nói trên thì tất
cả sẽ mất hết”. Ông đặc biệt nhấn mạnh quyền Tư pháp phải nhất thiết
tách ra, độc lập với hai quyền kia.
Ngày nay, nhân loại đánh giá một nhà nước dân chủ văn minh khi thực
hiện tốt các tiêu chí:
Xã hội được tự do khi nhà nước bị kiểm soát bởi luật pháp mà mục đích
là để bảo vệ các quyền con người.
Xã hội được quản lý bởi một chính phủ của luật pháp. Một cá nhân có thể
làm bất cứ điều gì luật pháp không cấm, còn quan chức nhà nước chỉ được
làm những gì luật pháp cho phép.
Đối chiếu những ý kiến ở trên, soi rọi vào cách tổ chức nhà nước của ta
, sẽ không quá khó khăn để hiểu vì sao nhà nước chúng ta chưa thể có tư
pháp độc lập, nạn quan liêu, tham nhũng lan tràn không sao ngăn nỗi.
Những ý kiến chống lại Tam quyền phân lập cho rằng nó sẽ làm cho Đảng
mất quyền lãnh đạo. Thật là sai lầm! ĐH 11 cho rằng: “Đảng lãnh đạo
bằng cương lĩnh, chiến lược ,các định hướng chính sách và chủ trương
lớn, bằng công tác tuyên truyền, vận động, thuyết phục, bằng hành động
gương mẫu của đảng viên”(Văn kiện,trang 88). Nhà nước tam quyền phân
lập chỉ buộc Đảng, cũng như Nhà nước phải đặt mình ở dưới Hiến pháp và
pháp luật. Tư pháp độc lập của nhà nước pháp quyền có thể gọi người vi
phạm pháp luật bất cứ đó là ai phải trả lời trước tòa án. Một phó
thường dân cũng như ông tổng bí thư đều bình đẳng trước pháp luật. Có
người ví von việc khó chấp nhận điều này là “Không ai lấy đá tự ghè vào
chân mình”.Nhưng đó chính là cách duy nhất giúp cho Đảng thoát khỏi
tham nhũng, quan liêu như hiện nay, để có thể lấy lại niềm tin của nhân
dân đang sút giảm nghiêm trọng.
5. XÂY DỰNG XÃ HỘI DÂN SỰ ĐÚNG NGHĨA
Khái niệm xã hội dân sự có từ thời cổ Hy Lạp, nó chỉ một phạm trù rộng
lớn của đời sống xã hội bao gồm gia đình, tôn giáo, giáo dục, văn hóa,
nghệ thuật…Đến thời khai sáng, các nhà tư tưởng đề cao quyền tự do cá
nhân trong xã hội dân sự, độc lập với nhà nước, coi xã hội có trước nhà
nước, nhà nước không được lấn át xã hội dân sự. Một nhà nước được coi
là văn minh, hợp pháp khi nào được thành lập bởi sự thỏa thuận của tất
cả các cá nhân trong xã hội dân sự, điều đó được xác lập bằng một Hiến
pháp dân chủ. Sự phân chia giữa nhà nước và xã hội dân sự được coi là
đặc trưng của một thể chế chính trị thực sự dân chủ.
Trong các chế độ quân chủ, độc tài, xã hội dân sự dù bị đàn áp vẫn tồn tại, đấu tranh bảo vệ các quyền tự do của người dân bị xâm phạm. Quá trình dân chủ hóa là quá trình phát triển của xã hội dân sự từ non yếu đến mạnh mẽ. Có thể có xã hội dân sự chưa thật hoàn thiện trong một chế độ độc tài, nhưng không thể có chế độ dân chủ mà lại không có xã hội dân sự. Hàn quốc, Đài Loan, Thái Lan, Philippine, Indonexia và mới đây là Myanmar đều đi từ độc tài đến dân chủ, xã hội dân sự từ non yếu phát triển và hoàn chỉnh nhanh chóng.
Trong thể chế theo mô hình xã hội chủ nghĩa xô viết, tất cả đều Nhà
nước hóa, từ đời sống kinh tế, chính trị, văn hóa, cái công cộng xóa bỏ
cái riêng tư. Nhân dân chỉ còn sở hữu tập thể đối với tư liệu sản xuất,
ngay sức lao động và quyền bán sức lao động của mình cũng không còn,
gia đình, tín ngưỡng cũng mất tính độc lập. Xã hội dân sự nhường chỗ
cho xã hội toàn trị. Tất cả các hội đoàn đều do người của cấp ủy Đảng
cử ra làm chủ tịch, thậm chí cả Đoàn chủ tịch, Ban Thường vụ đều là
đảng viên. Tất cả các hội đoàn lấy nghị quyết của Đảng làm chuẩn để
soạn thảo nghị quyết của mình. Nông dân đi khiếu kiện không có thể dựa
vào Hội nông dân; Công nhân đình công không thể yêu cầu công đoàn lãnh
đạo. Báo chí là tiếng nói của một hội đoàn nào đó, không phải tiếng nói
của một con người tự do.
Đổi mới kinh tế mở ra một nửa cánh cửa của xã hội dân sự. Tuy nhiên các
quyền tự do về tinh thần, tự do hội họp, lập hội, biểu tình, tự do tư
tưởng, ngôn luận, báo chí, tự do sáng tạo nghệ thuật… vẫn chưa được
thực hiện theo các giá trị phổ quát của nhân loại đã được ghi nhận
trong các Công ước của Liên Hiệp Quốc và đã được Nhà nước Việt Nam cam
kết gia nhập. Nhiều cán bộ cao cấp vẫn còn ngộ nhận: Cho rằng nước ta
đã có hàng trăm hội đoàn cớ sao cứ bảo chưa có tự do hội họp và lập
hội? Đã có hơn 700 tờ báo, tỉnh nào cũng có đài phát thanh, truyền hình
cớ sao cứ kêu không có tự do báo chí, tự do ngôn luận? Xin các vị đọc
lại ý kiến của Nguyễn Ái Quốc về vấn đề này. Trong “Bản yêu sách của
nhân dân An Nam” do Nguyễn Ái Quốc gửi tới Hội nghị Versaille tháng
1-1919 có 8 điều, điều 3 là: “Tự do báo chí và tự do ngôn luận”; Điều 4
là “Tự do lập hội và hội họp”. Trong quyển “Đây công lý của thực dân
Pháp ở Đông Dương”, Nguyễn Ái Quốc viết những năm 1921-1926 có đoạn:
“Mãi tới bây giờ chưa có một người Việt Nam nào được phép xuất bản một
tờ báo nào cả. Tôi gọi tờ báo tức là một tờ báo về chính trị, về kinh
tế, hay văn học như đã thấy ở châu Âu và các nước châu Á khác, chứ
không phải một tờ báo do chính quyền lập ra” (Hồ Chủ tịch với báo chí,
Hội nhà báo TP HCM, 1980, trang 9). Như vậy, khi nói về các quyền tự
do, Hồ Chí Minh cho rằng đó phải là tự do của mỗi con người. Đến năm
1938, báo Dân chúng của Đảng cộng sản xuất bản không xin phép và được
nhà nước thực dân Pháp chấp nhận. Trong chế độ thuộc địa hà khắc, xã
hội dân sự Việt Nam vẫn len lỏi nảy nở. Từ năm 1920 đã có công hội của
Tôn Đức Thắng. Từ năm 1930 đã có các Đảng chính trị như Quốc dân Đảng,
Đảng cộng sản Việt Nam và các hội đoàn như Hội Ái hữu, Hướng đạo; từ
năm 1934 có Tự lực văn đoàn một hội đoàn hiện đại tạo ảnh hưởng rất lớn
lao về văn học và xã hội; 1937 có Hội truyền bá quốc ngữ… Trừ hai đảng
chính trị, các hội đoàn đều công khai hoạt động. Chẳng lẽ nhà nước Việt
Nam cảnh giác đối với nhân dân đã trải qua 68 năm làm cách mạng của
mình hơn cả bọn thực dân Pháp! Chúng ta hãy nhìn ra thế giới văn minh,
nhìn gần hơn là các nước quanh vùng để thương cho dân mình và mau chóng
thực hiện các quyền tự do đã bị treo suốt 68 năm.
Xã hội dân sự bao trùm tất cả các mặt của đời sống xã hội cho nên nó vô
cùng quan trọng. Thời đại toàn cầu hóa cho thấy con đường văn minh của
nhân loại có những điểm chung giống nhau trong sự vận dụng các giá trị
phổ quát, hình thành mô hình xã hội tiến bộ, phát triển, gồm có “ bộ
ba” không thể thiếu một, đó là: xã hội dân sự, kinh tế thị trường và
nhà nước pháp quyền.
Tống Văn Công
30-9-2013
NGUỒN : Viet-Studies
Các thao tác trên Tài liệu