Đôi điều về sự học ngày trước, bây giờ
Trả lời phỏng vấn của báo An ninh Thế giới (*)
Đôi điều về sự học ngày trước, bây giờ
Bùi Trân Phượng
Những ngày giãn cách xã hội, quan sát các em học sinh liên tục học online và trả bài online tôi đột nhiên nghĩ nhiều về sự học của người Việt xưa nay. Ai cũng nói là người Việt có truyền thống hiếu học, hiểu theo nghĩa là học mọi nơi, mọi cách, mọi kiểu. Vậy thì suy cho cùng những sản phẩm giáo dục được tạo ra từ “cơ chế hiếu học” có tính chất cha truyền con nối qua nhiều thế hệ - nếu chúng ta tin như thế, đã thể hiện mình như thế nào? Nhìn rộng ra thế giới, liệu có dân tộc nào lại tự nhận mình có truyền thống “lười học”, hoặc học không đúng nơi, đúng chỗ, đúng kiểu hay không? Thật vui khi được trao đổi cởi mở tất cả những suy ngẫm này với nhà sử học, nhà giáo, tiến sĩ Bùi Trân Phượng.
Phan Đăng
Nhà báo Phan Đăng:
Thưa tiến sĩ Bùi Trân Phượng, xin bắt đâu bằng một câu hỏi rất thời sự thôi, quá trình dạy học online trong suốt những ngày vừa qua đã đem tới cho bà một cảm giác như thế nào?
Tiến sĩ Bùi Trân Phượng:
Cuối năm học trước, tôi đã trải nghiệm dạy trực tuyến lớp Cao học, tôi thấy khá ổn, tiết kiệm được thời gian và phiền nhiễu đi lại trên đường cho cả người dạy, người học. Nhưng đó là học viên đã trưởng thành.
Đối với học sinh phổ thông phải học toàn bộ online, tôi lo lắng hơn nhiều. Biết là cần thiết vì dịch bệnh, nhưng ngay cả về sức khỏe thể chất, trẻ ngồi nhiều giờ trước màn hình đã rất có hại rồi, chưa kể cám dỗ “lợi dụng” để chơi game hay lướt FB. Còn nhiều nỗi lo khác.
Học sinh và cả sinh viên đều phát sinh nhiều vấn đề khi không được hưởng không khí thân quen của trường lớp với thầy, với bạn, vốn là môi trường giao tiếp xã hội quan trọng. Thầy và trò hầu hết không được đào tạo, hướng dẫn bài bản về phương thức dạy và học trực tuyến; nếu chỉ đơn thuần là ghi âm bài giảng, ghi hình thầy cô bất động trước màn hình Zoom thì hiệu quả sư phạm giảm đi nhiều lắm. Nếu thầy cô được đào tạo tốt, biết sử dụng công nghệ và yêu nghề, sáng tạo thì có thể phát huy lợi thế của việc học trực tuyến trên một số phương diện.
Cháu
tôi học lớp một trường Yersin ở
Hà Nội, bài tập là sáng tác
một truyện cổ tích theo dạng trả
lời câu hỏi do mỗi cháu tự đặt
ra, theo kiểu: Vì sao hươu cao cổ có
cái cổ dài? Vì sao khủng long bạo
chúa trở thành con gà mái? v.v…
Qua đó, các cháu vận dụng kiến
thức tự học hay trí tưởng tượng
phong phú của mình, học viết tiếng
Pháp đúng ngữ pháp, rồi đọc
diễn cảm bài mình đã viết,
vẽ tranh minh họa. Thầy tập hợp bài
tập của lớp thành cuốn sách nói
vô cùng sinh động. Như vậy, dù
trực tuyến, các cháu đã thỏa
sức sáng tạo và tương tác,
học và vui với tác phẩm của
chính mình và các bạn. Nhưng
sẽ có bao nhiêu thầy cô của ta
tận dụng được công nghệ theo
kiểu đó?
Vì vậy, nỗi lo lớn
hơn là: học trực tuyến thì chất
lượng dạy và học sẽ rất
không đồng đều, do thầy và
trò có đủ thiết bị phù
hợp tới mức nào; do môi trường
học tập tại nhà của trẻ có
chất lượng rất chênh lệch nhau; do
kiến thức, năng lực và từ đó
hiệu quả dạy và học trực tuyến
càng chênh lệch. Bất bình đẳng
trong chất lượng giáo dục mà trẻ
mầm non và học sinh phổ thông thực
sự nhận được sẽ gia tăng
nghiêm trọng, với những dạng thức
không dễ dàng nhận biết.
PĐ. Tôi nghĩ, muốn học online tốt, người học phải có một tinh thần tự giác rất cao. Có phải thế không ạ?
BTP. Đúng quá! Điều đáng lo là nhiều học sinh VN chưa được chuẩn bị tốt để có tinh thần tự giác như vậy vì từ gia đình đến nhà trường, người lớn thường xuyên “theo dõi, giám sát” và cả gây áp lực đối với việc học của các em nhiều hơn mức cần thiết rất xa! Trẻ càng bị “quản lý chặt” thì càng lệ thuộc vào sự quản lý ấy, sao mà tự giác được?
Biết, hiểu và giữ gì từ di sản?
PĐ. Giờ thì chúng ta hãy lật dở dòng lịch sử để xem tinh thần học tập của ông cha ta như thế nào, và thế hệ người học hôm nay có thể học hỏi điều gì về tinh thần ấy. Tôi nghĩ rằng bảo ông cha chúng ta có truyền thống hiếu học cũng đúng, vì có quá nhiều câu chuyện chứng minh cho điều này rồi. Nhưng nhìn rộng ra thế giới, tôi nghĩ để có thể tồn tại được cho đến nửa đầu thế kỷ 21 thì về cơ bản dân tộc nào cũng hiếu học cả. Hình như chẳng có dân tộc nào lại tự nhận mình có truyền thống lười học, phải không ạ?
BTP.
Nhìn
nhận thì chắc là không. Tôi cũng không có cơ sở nào để
đánh giá mức độ lười
học hay ham học của các cộng đồng.
Tuy nhiên, cộng đồng hiếu học
phải chăng là những cộng đồng
không chỉ sống lâu đời trên
địa bàn cư trú của mình mà
còn biết học hỏi, thích nghi, sử
dụng các nguồn lực thiên nhiên
một cách hợp lý, có lợi nhứt
cho sự phát triển bền vững của
cộng đồng ấy; biết học hỏi
hiệu quả, tiếp biến văn hóa thành
công từ việc giao thoa với nhiều nền
văn hóa khác, dủ giao thoa đó
diễn ra thông qua di dân tự nhiên hay
cưỡng chế, giao thương hòa bình
hay xung đột, chiến tranh và thuộc địa?
Về việc chịu học, ham học và học
có hiệu quả trên những phương
diện tôi vừa kể (tất nhiên còn
nhiều phương diện khác), lịch sử
Việt Nam có những minh chứng xuất sắc,
cũng có những sự trì trệ kéo
dài, không biết có phải là
lười học không, nhưng chắc chắn
là chậm tiếp thu cái mới, hoặc
tiếp thu không hiệu quả, hay ngủ yên
quá lâu trên tri thức và thói
quen “truyền thống” của mình.
Phải chăng ta cần học lại tử tế
hơn về lịch sử sự học của
mình để biết trong đó có
cái gì hay, cái gì dở, cái
gì cần phát huy, cái gì cần
đổi mới và cả cái gì cần
vĩnh viễn đào sâu, chôn chặt
vì sức trì kéo và sự độc
hại của nó?
PĐ. Theo tôi có hai mục tiêu cơ bản của sự học. Một là học để thoả mãn những cựa quậy tri thức ở bên trong con người cá nhân của mình. Càng cựa quậy người ta càng phải đào cùng tát cạn những tri kiến nhân gian, cho tới khi đạt được trạng thái tương đối thoả lòng mới thôi. Hai là học để phấn đấu cho một lý tưởng, một mục tiêu gì đó, ví dụ như để có quyền vị, chức tước. Theo bà, nhìn một cách tổng thể và tương đối thôi, ông cha chúng ta nghiêng về phía nào nhiều hơn?
BTP.
Tổng thể và tương
đối thôi (cười), tôi e là
không chỉ có hai mục tiêu mà
thực tế có rất nhiều trạng thái
trung gian, hoặc ra ngoài hai xu hướng đó.
Riêng tôi, sẽ không gọi chức
quyền là lý tưởng, vì tôi
hiểu lý tưởng là cái chúng
ta hướng về, vươn tới mà biết
rõ là mình không bao giờ đạt
được nó trọn vẹn và hoàn
hảo. Và nếu lý tưởng của
người ta lại chính là khao khát
biết cái mới, không ngừng tiệm
cận chân lý mà mình biết sẽ
không bao giờ nắm trong tay, vĩnh viễn,
một lần cho muôn đời? Thì phải
chăng đó chính là cái anh gọi
là sự cựa quậy bên trong, là
khao khát hiểu biết, là ý nghĩa
giản dị của khái niệm “hiếu
học”?
Nên nhớ chữ đầu
tiên “thầy Khổng” dạy, chính
là học.
Khổng Tử từng nói: “Kẻ mà
ta giúp giở một góc lên mà
không biết tự mình giở ba góc
còn lại, kẻ ấy không đáng
cho ta dạy.” Cũng chính ông tự
định nghĩa mình là người
“học không biết chán, dạy người
không biết mỏi”. Ông cha ta từng
nằm lòng Luận ngữ, lẽ nào đều
không ít nhiều chia sẻ tinh thần hiếu
học đúng cái nghĩa tốt đẹp
như vậy? Cũng như chia sẻ lý tưởng
học để làm người, vì “nhân
bất học bất tri lý”, như “ngọc
kia chẳng giũa chẳng mài, cũng thành
vô dụng cũng hoài ngọc đi”.
Hồi nhỏ, tôi được học như
vậy, và đó là quan niệm phổ
biến trong xã hội miền Nam trước
1975, cũng như trong cả nước từ bao
đời. Giáo sư Trần Văn Khê kể
khi người lớn hỏi đi học để
làm gì, cậu học trò tiểu học
là ông trả lời vanh vách: “Con
đi học để lớn lên có ích
cho nhân quần xã hội.” Tôi cho
đó là phần tốt đẹp trong
truyền thống hiếu học mà chúng
ta kế thừa từ Nho giáo: ý thức
trách nhiệm xã hội.
Nếu ngày
nay, ta thấy nhan nhản cái thực tế học
vì mảnh bằng chứ không vì tri
thức, học để làm quan, học để
làm giàu bất chấp đạo đức
và lẽ phải, xin đừng đổ lỗi
tất cả cho tiền nhân. Nó còn có
nguyên nhân từ những trầm luân
dâu biển qua chiến tranh và cách
mạng, từ tính hoang dã của chủ
nghĩa tư bản chưa trưởng thành,
từ áp lực của giá trị vật
chất đang thống trị xã hội toàn
cầu.
Tất nhiên, cũng có nguyên nhân từ thời độc tôn Tống Nho, từ chế độ khoa cử kéo dài hàng trăm năm. Người đeo đuổi mục tiêu đỗ đạt, có người tầm thường vì danh lợi, cũng có người thực tâm lấy đó làm đường lập thân, lập nghiệp hiểu theo nghĩa tốt là đem sở học của mình giúp dân, giúp nước, thực hành những giá trị học từ thánh hiền. Nhưng chế độ quân chủ chuyên chế không phải là môi trường phát triển nhân tài hiểu theo nghĩa tài năng, đức độ cá nhân, nhứt là khi cá nhân có suy nghĩ, chính kiến khác số đông, ngược ý cấp trên. Ông Bộ trưởng Giáo dục Tharman Shanmugaratnam của Singapore từng tổng kết với tác giả Fareed Zakaria của quyển Biện hộ cho một nền giáo dục khai phóng là cả Singapore và Hoa Kỳ đều có chế độ nhân tài, nhưng Hoa Kỳ là chế độ “nhân tài tài năng”, còn Singapore là “nhân tài thi cử”. Điều đó đúng với nhiều quốc gia Đông Á.
PĐ. Thật ra cũng chẳng riêng gì Việt Nam, truyền thống Nho giáo khiến nhiều nước Á Đông nuôi dưỡng cơ chế học để thi cử, học để làm quan, vì trong xã hội phong kiến phương Đông thì làm quan gần như là cái cửa đổi đời duy nhất. Gần như không còn cách lựa chọn nào khả dĩ hơn. Nhưng đứng ở góc độ học thuật thuần tuý, bà thấy kiểu học này có gì hay và chưa hay?
BTP. Trong xã hội truyền thống, không phải ai cũng muốn đổi đời. Tư tưởng Nho, Phật, Lão đều dạy người ta sửa mình theo nhân nghĩa, coi trọng sự thật, lẽ phải, điều thiện hơn danh lợi, xảo trá, độc ác; chuyên tâm tìm đường diệt khổ chứ không chấp vào tham, sân, si; tiêu dao với thiên nhiên thay vì đua chen chốn bụi trần. Từ “đổi đời” thật ra rất hiện đại, đâu phải thuộc về truyền thống (cười)! Ngày xưa, người đi học không phải ai cũng đi thi, số đông chỉ “kiếm năm ba chữ” để biết sống làm người. Thực trạng đó có lợi, mà cũng có hại cho sự phát triển của khoa học, sự tiến bộ của xã hội.
Tất nhiên, học trò nhiều năm liền nấu sử sôi kinh là “quyết ném thanh khâm sang cẩm tú, quyết xoay bạch ốc lại lâu đài”, tức muốn từ người học trò nghèo thành ông quan hiển đạt. Đã là học để thi, dễ dẫn đến học giản lược, học thuộc lòng, học để trả bài, viết không để diễn đạt suy nghĩ riêng của mình mà chỉ lặp lại giáo điều sách vở, sáo ngữ rỗng. Nội dung học và thi suốt hơn 400 năm độc tôn Tống Nho chỉ gò bó trong Tứ thư, Ngũ kinh, không đa chiều, tranh biện như thời Bách gia chư tử của Trung Hoa hay như thời Lý, Trần của ta còn thi tam giáo; cũng không có tri thức khoa học kỹ thuật. Nhiều quy định khắc nghiệt về trường quy, kỵ húy càng khiến người ta tự ép mình vào khuôn khổ. Mỗi kỳ thi, số lấy đậu không nhiều, thường chỉ khoảng 40-50 trên số 5 đến 6 000 người thi vào những năm thịnh nhứt của khoa cử; nên nhiều người thi đi thi lại cũng chỉ dừng ở Tú Kép, Tú Mền (2, 3 lần thi đậu Tú tài mà không đậu được cao hơn), lãng phí nhân lực và hoài bão, đến nỗi người ta coi học trò là hạng “dài lưng tốn vải, ăn no rồi nằm”. Cái lợi có chăng, chỉ là thói quen coi trọng sự học, sự đầu tư công sức, thời gian của người học, cần cù, bền chí đeo đuổi học hành, kiên trì vượt khó, sự quan tâm của gia đình, làng xã vun bồi cho việc học của con em. Mặt trái của mỹ tục ấy lại là óc bon chen, là trông mong “một người làm quan cả họ được nhờ”. Học để thi càng phát triển thì hiếu học càng dễ trở thành hiếu danh, hiếu lợi, không còn là học điều hay lẽ phải, học để giúp đời, càng không hề là mở tri thức, rèn tư duy.
Truyền thống hiếu học, phải chăng chỉ có một khuôn khổ?
PĐ. Cùng chịu ảnh hưởng bởi Khổng giáo như nhiều nước Đông Á khác, nhưng ở Nhật Bản có câu chuyện nổi tiếng: một vị thầy hỏi những học trò của mình rằng nếu một ngày Khổng Tử, Mạnh Tử mang quân xâm lược thì phải làm gì? Câu trả lời: Phải vung gươm đánh lại. Câu chuyện này cho thấy ở một góc độ nào đó người Nhật không tiếp cận Khổng giáo một cách xơ cứng, bị động, mà ít nhiều lật đi lật lại vấn đề. Bà đánh giá gì về một tinh thần học tập như thế?
BTP. Trái với nhiều người kể lại giai thoại ấy, tôi không “mặc cảm” tự ti với người Nhật khi nói về “chống xâm lược”. Tổ tiên ta không chỉ nói, mà đã nghĩ và làm, rất kiên trì, quyết liệt trong việc chống ngoại xâm đến từ quê hương Khổng Mạnh. Khi bài thơ thần trên sông Như Nguyệt khẳng định quyền của “Nam đế” trên sông núi nước Nam, gọi kẻ thù là “nghịch lỗ” và viện dẫn “định phận tại thiên thư”, khi Nguyễn Trãi định nghĩa lại “nhân nghĩa” và “điếu phạt” để làm rõ chính nghĩa dân tộc bằng chính những khái niệm mà con cháu Khổng Mạnh dùng làm lý cớ xâm lược, thì họ đâu có lệ thuộc Nho giáo một cách nô lệ. Lịch sử bang giao Việt-Trung còn nhiều giai thoại hay về “di biện”, tức là biện biệt, tranh luận với vua quan Tàu để không cho phép họ gọi sứ mình là “di sứ”, xem nước mình là man di, mọi rợ. Phân biệt Hoa, Di và ép cả “thiên hạ” phục tùng thiên tử là nội dung rất cơ bản của Nho giáo từ đời nhà Hán (206TCN-220), tức từ khi tư tưởng Khổng Tử trở thành ý thức hệ quốc gia của Trung Hoa, và nay đang được phục hồi, chẳng hạn qua các Viện Khổng Tử được thành lập ở nhiều nước.
Bất
hạnh của Việt Nam lại chính là
chỗ hình như chúng ta chỉ tranh biện
một vấn đề ấy mà thôi, khi
đất nước bị xâm lăng, chủ
quyền bị đe dọa hay bị mất. Tôi
được đọc bài giáo sư
Cao Huy Thuần tường thuật và bình
luận nội dung quyển sách của học
giả Nhật Maruyama giới thiệu những
trường phái trí thức Nhật từ
thế kỷ 17-18 đã phê phán Tống
Nho, đề cao quốc học của Nhật Bản
khác biệt với giáo huấn của
thánh nhân và Nghiêu Thuấn thời
cổ đại Trung Hoa. Không phải các
trường phái triết học đó đã
đạt chân lý tuyệt đối, nhưng
thật đáng suy nghĩ khi họ đã
đặt lại vấn đề trước khi
tiếp xúc với phương Tây, từ
bên trong chứ không do áp lực bên
ngoài.
Việt Nam thì phải đến
khi họa xâm lược từ phương Tây
– mà sức mạnh khoa học kỹ thuật
đã được nhận biết từ
khi ta còn chìm trong xung đột nồi da
xáo thịt Trịnh-Nguyễn, Nguyễn-Tây
Sơn – trở thành hiện thực mới
xuất hiện những tư tưởng kêu
gọi canh tân, trước hết và quan
trọng nhứt là canh tân sự học,
từ Nguyễn Trường Tộ đến Phan
Châu Trinh rồi Nguyễn An Ninh. Ngậm ngùi
và đáng lo thay, khi ngót trăm năm
sau ngày giành độc lập, nửa thế
kỷ sau ngày thống nhất, những tư
tưởng ấy vẫn còn bị giáo
dục chính thống lãng quên!
PĐ. Có một câu vè rất chua chát để nói về thực trạng “học để làm quan” trong xã hội quân chủ chuyên chế Việt Nam: Một giỏ ông đồ/Một bồ ông cống/Một đống ông nghè/Một bè tiến sĩ/Một bị trạng nguyên/Một thuyền bảng nhãn. Câu vè ấy khiến chúng ta cắc cớ tự hỏi: trong hàng ngàn năm, chẳng nhẽ ông cha chúng ta chỉ học Khổng Mạnh hay sao? Theo bà, trước và sau khi Khổng giáo vào Việt Nam, sự học của người Việt có điều gì khác?
BTP.
Như
mọi loài sinh vật, muốn sống con người
phải học. Họ càng học nhiều hơn
từ khi có nông nghiệp, chăn nuôi,
tức là tự tạo nguồn thức ăn
nuôi sống mình, chứ không chỉ
phụ thuộc thiên nhiên như thời săn
bắn, hái lượm. Tiếng nói là
một tiến bộ khác của sự học,
chia sẻ tiếng nói chung là yếu tố
quan trọng cấu thành cộng đồng,
thành dân tộc. Chữ viết cao hơn
tiếng nói. Dân tộc mình không
có chữ viết, phải học và dùng
chữ Hán trong nhiều thế kỷ, có
cái lợi và bất lợi. Một trong
những bất lợi là giáo dục chính
thống cho đến ngày nay vẫn quá
“độc tôn” tài liệu viết,
mà thiếu quan tâm học từ văn hóa
vật chất, từ văn hóa truyền khẩu.
Một di hại lâu dài của Nho giáo
là khinh lao động chân tay; nghề thủ
công, kinh nghiệm thương nghiệp cũng
ít được trân trọng. Lý do
quan trọng khác là khi nhìn lịch sử
chỉ thấy chiến tranh chống ngoại xâm,
chỉ muốn nhớ chiến thắng. Tất cả
những điều đó khiến ngày
nay chúng ta ít biết về xã hội
nói chung, sự học nói riêng, ngoài
cái học khoa cử.
Từ vài trăm
năm trước CN, nhà Tần, nhà Hán
đến đồng bằng sông Hồng và
lưu vực sông Mã, sông Cả đã
thấy những xã hội có tổ chức,
biết khai thác nguồn lực thiên nhiên
hiệu quả. Họ còn ghi nhận hàng
chục điều khác biệt với luật
Trung Hoa, khiến họ phải ra sức thay đổi
cả pháp luật và phong tục để
đồng hóa. Sau hàng ngàn năm, nỗ
lực của họ không phải là vô
hiệu, nhưng cũng không hoàn toàn
thành công; ngược lại, nhiều lượt
di dân từ phương bắc đã hòa
nhập với cư dân và văn hóa
bản địa; nội lực Việt gia tăng
từ học hỏi, từ đề kháng văn
hóa, nuôi chí quật cường cho đến
khi giành độc lập, tự chủ, không
phải chỉ bằng thắng lợi quân sự.
Cội nguồn xa xưa tiền Bắc thuộc
là văn hóa Đông Nam Á với
những tri thức, tín ngưỡng đặc
trưng. Trước Lê-Nguyễn và ngay cả
trong thời Nho giáo độc tôn vẫn
tồn tại mạnh mẽ những biểu hiện
của Phật-Lão, của văn hóa bản
địa, chưa kể sự xâm nhập của
văn hóa phương Tây từ cuối
thế kỷ 16, đầu 17 thông qua giao thương
và truyền giáo. Quá trình mở
đất, di dân về phương nam càng
làm phong phú vốn hiểu biết, tín
ngưỡng và văn hóa Việt với
những giao thoa, tiếp biến với văn hóa
Chăm, Khơ-me, văn hóa các tộc
người vùng cao. Nho học ở Việt
Nam, ngay cả thời độc tôn Tống Nho
vẫn rất ít trường quốc lập
và nhiều trường dân lập nơi
thầy đồ không chỉ truyền kiến
thức sách Nho mà còn học lại
từ dân, đúc kết kinh nghiệm dân
gian thành minh triết. Chữ Nôm giúp
phát triển nền văn học Nôm rực
rỡ bằng tiếng mẹ đẻ, dễ
truyền khẩu trong dân.
Một
số thành quả không phủ nhận được
từ sự học ngoài sách vở ấy:
hệ thống đê điều ở Bắc,
kinh nghiệm trồng lúa rẫy và lúa
nước ở những địa hình khác
biệt, kinh nghiệm sống chung với lũ,
khai khẩn đất bồi, đất giồng
ở Nam; vai trò quan trọng của phụ nữ
(là đối tượng hoàn toàn bị
gạt ra ngoài cái học khoa cử) trong
xã hội Việt khác hẳn Trung Hoa; rồi
quan họ, chèo, tuồng, lục bát, ca dao
hò vè với nhiều sắc thái khác
biệt địa phương… Nhà phê
bình văn học Nhật Chiêu từng nói:
“Sẽ không thể có Nguyễn Du hay
Hồ Xuân Hương nếu họ không
học từ ca dao và văn chương truyền
khẩu.”, tôi hoàn toàn đồng
ý. Tôi không nhắc lại những
thành tựu từ khi ta có chữ quốc
ngữ và tiếp thu văn hóa phương
Tây, cũng không chỉ thông qua hệ
thống nhà trường vì nó rất
ít về số lượng. Có một
thành tựu rực rỡ khác chúng ta
trải nghiệm hàng ngày: ẩm thực
Việt ngon và phần nhiều lành, vô
cùng phong phú, đa dạng và tinh tế,
là do học từ trường lớp, sách
vở Nho hay từ sự học hỏi của
người làm bếp, nấu ăn về
cách chế biến thịt cá, tôm cua,
rau củ, và cả hoa lá bản địa
trong tầm tay mình, và từ khẩu vị
sành sỏi, đòi hỏi cao của người
ăn?
Cho nên những câu vè anh dẫn
cũng cho thấy người dân “không
có chữ” luôn hiểu giá trị
thật của mình so với những giỏ,
những bồ, những đống kia, chứ
không phải lúc nào cả dân tộc
cũng chỉ biết nhắm mắt “tôn
sư trọng đạo” như người
ta hay nói (cười).
Ngày nay, ta có muốn học, có học được không?
PĐ. Giai đoạn cuối thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20 có lẽ là giai đoạn thức tỉnh về sự học lớn nhất trong lịch sử Việt Nam. Một lớp người trí thức mới cổ suý cách học mới, tư tưởng mới, nhưng cái mới ấy có vẻ vẫn bị quán tính của cái cũ cãi lại theo cách này hay cách khác. Và có người nhận xét cái quán tính có từ truyền thống học hành cả ngàn năm đó vẫn ảnh hưởng đến tâm lý học tập của người Việt hôm nay. Bà nghĩ sao ạ?
BTP. Thứ nhứt, tình trạng Tống Nho là nội dung chính thống của học hành, thi cử chỉ kéo dài hơn 400 năm, không phải hàng ngàn năm. Trong hơn bốn thế kỷ ấy, nếu chúng ta biết truy vấn nhiều nguồn hơn là tài liệu thành văn, sự độc tôn của nó không bao giờ tuyệt đối mà luôn bị thách thức bởi nhiều xu thế văn hóa khác. Xét về thời gian, chúng ta làm quen với văn hóa phương Tây cũng hơn 400 năm nay rồi; là tôi không tính đến đồng tiền La Mã thời Marc-Aurèle được tìm thấy trong di tích Óc Eo, vì mối quan hệ giữa dân tộc ta với văn minh Óc Eo là quá xa xôi. Nhưng vì sao, một bên vẫn được coi như máu thịt, đụng đến thì sợ xúc phạm bàn thờ; còn một bên cứ bị coi như xa lạ, ngoại lai, hấp thụ sợ mình mất gốc, chí ít cũng lo “không phù hợp”? Có phải là căn cứ vào sự thật lịch sử hay thực tế cuộc sống đâu!
Từ
Nguyễn Trường Tộ đến Phan Châu
Trinh, Nguyễn An Ninh – là tôi chỉ kể
vài cái tên tiêu biểu, chứ đến
đầu thế kỷ 20 họ đã không
còn là cá biệt – đúng là
đánh dấu sự thức tỉnh. Nhưng
là “truyền thống lâu đời”
bướng bỉnh cãi họ, hay là con
cháu đời sau lãng quên, không
biết học tiền nhân, càng không
làm tiếp sự nghiệp dở dang của
họ? Ngay dưới thời quân chủ chuyên
chế, đi giữa hai lằn đạn, tiếng
nói Nguyễn Trường Tộ còn đến
được triều đình, các bản
điều trần được Cơ Mật
viện nghiên cứu và lưu trữ, đích
thân nhà vua đọc, suy nghĩ và cố
gắng làm theo trong chừng mực ông hiểu
được và tương quan thế lực
cho phép ông cựa quậy. Giữa thời
thuộc địa, Nguyễn An Ninh còn diễn
thuyết trước công chúng bằng
tiếng Tây, thách thức mật thám
Pháp; đám tang Phan Châu Trinh huy động
đoàn biểu tình đông đảo
giữa Sài Gòn, có đủ đại
diện thành phần yếu thế như phụ
nữ, thợ thuyền, nông dân, không
cần sự tổ chức lãnh đạo của
đảng phái nào. Trí thức canh
tân thực sự có ảnh hưởng
trong quần chúng. Còn ngày nay, hỏi
tên các vị ấy, nhiều thanh niên
có học thức hẳn hoi ú ớ, phát
ngôn của các vị họ sửng sốt
nghe lần đầu khi có người nhắc
đến, tác phẩm của các vị
có ai đọc, tư tưởng của các
vị có ai theo? Sau đó, cũng có
những thế hệ kế thừa, cả ở
miền Bắc và đông hơn, ở miền
Nam sau 1954. Chúng ta đã biết gì,
làm gì với những di sản ấy? Sao
không thấy trách nhiệm của mình,
chỉ đổ thừa bóng ma quá khứ
ngàn năm?
Khi cái lạc hậu, lỗi
thời chẳng những không bị thay thế
mà còn được củng cố, tiếp
sức, tôi không phủ nhận là nó
trỗi dậy, mạnh mẽ hơn, gây tác
hại nghiêm trọng hơn. Nhưng có
phải tác hại ấy chỉ xuất phát
từ quá khứ?
PĐ. Chúng ta chắc chắn sẽ không làm một việc điên rồ là “bắn súng lục vào quá khứ”, nhưng chúng ta được phép rút kinh nghiệm từ quá khứ. Với một cái nhìn như thế, bà nghĩ người Việt hôm nay nên học điều gì, và không nên học điều gì từ cách học của tổ tiên, ông cha mình?
BTP. Là
người học sử từ chối giáo
điều xơ cứng mà luôn đi tìm
dấu vết sinh động của con người,
cuộc sống thật, tôi đã học
được bao điều và vẫn còn
thấy rất nhiều điều muốn học
từ cách học của tổ tiên, xin
nhấn mạnh lần nữa, không chỉ có
sự học từ sách vở, trường
lớp và khoa cử. Trong Nho, Phật, Lão
đều có điều phải học, nhưng
cũng có những điều phải dứt
khoát chối từ, hoặc vì không có
căn cứ rõ ràng từ tài liệu,
sự kiện xác thực, hoặc vì nội
dung đó nay đã lỗi thời, thậm
chí có hại. Nhưng ngoài Nho, Phật,
Lão, còn vô vàn điều đáng
học trong văn minh vật chất và tinh
thần của người Việt Nam đa chủng
tộc, đa văn hóa. Có điều,
theo tôi, ít nhứt là ở thời đại
mình, không thể nghiên cứu lịch
sử dân tộc mình hay lịch sử Á
Đông mà không dùng đến lý
tính và phương pháp khoa học đã
thịnh hành ở phương Tây trước
chúng ta, vững mạnh hơn chúng ta, mà
nay đã thuộc tài sản trí tuệ
chung của loài người.
Trong cách
học của chúng ta, cũng như của các
nước láng giềng có chung di sản
Nho giáo, cái mạnh là coi trọng sự
học, là sự chăm chỉ siêng năng,
tinh thần vượt khó… như đã
nêu. Nhưng thách thức cho giáo dục
ở các quốc gia Đông Á, như
chuyên gia người Mỹ Levin đã nêu
về giáo dục đại học là
“truyền thống” học vẹt, học
để hiểu và làm theo người
xưa, không phải để tìm cái
mới, cái chưa biết, tri thức cần
cho hiện tại và tương lai; là khả
năng “tiêu hóa” thông tin mới;
là tư duy phản biện, nói rộng
hơn là lý tính, là tư duy khoa
học, biết nhìn đa chiều, lật đi
lật lại vấn đề, biết tôn
trọng khác biệt; là tự do học
thuật, suy nghĩ bằng cái đầu của
mình chứ không chỉ học theo, nói
theo, nghĩ theo, làm theo. Bao lâu chúng ta
còn xem những giá trị phổ quát
của khoa học là sản phẩm đặc
thù của văn minh phương Tây, là
ngoại lai và không phù hợp, thì
chúng ta còn chưa chịu học, làm
sao tồn tại và phát triển? Như
vậy không phải là “bảo tồn
truyền thống”, mà, nói như giáo
sư Cao Huy Thuần, là “không xứng
đáng với tổ tiên”.
Quan niệm thế nào là giáo dục, tôi cho rằng chúng ta – các quốc gia Đông Á có chung di sản Nho giáo và chữ Hán – nên thay đổi căn bản nội hàm của thuật ngữ này. Xét về từ nguyên, giáo có nghĩa « dạy dỗ, truyền thụ ; tôn giáo, đạo ; sai bảo, khiến ; cho phép », hàm ý quyền lực áp đặt chân lý của người trên với người dưới ; dục có nghĩa « nuôi dưỡng, nuôi cho lớn ; sinh con ». Hán Việt từ điển Đào Duy Anh định nghĩa giáo dục là « dạy dỗ người ta khiến cho thoát ly trạng thái tự nhiên tạo vật sinh ra ». Học, chữ Hán có nghĩa là « bắt chước, lĩnh hội », Đào Duy Anh định nghĩa : « chịu thầy dạy cho đạo lý, tập cho nghề nghiệp ». Tất cả đều hàm ý người trên dạy, người dưới học ; dạy là hướng dẫn, chỉ đạo, đưa ra khuôn mẫu, học là học theo, làm theo, nghĩ theo, tuân thủ khuôn phép. Cũng trong mạch ấy, có giáo hóa (dạy để thay đổi người học), giáo huấn (dạy bảo, giải thích), đều là truyền đạt, áp đặt cách nghĩ của mình, hiểu biết của mình cho người học. Từ education của phương Tây có gốc từ tiếng la tinh educare có nghĩa chăm sóc, nuôi dưỡng, làm cho lớn lên ; sinh viên (student, là người học nói chung, không phân biệt cấp học) có gốc từ studeo nghĩa là nghiên cứu, chăm chú tìm hiểu sâu về đối tượng nào đó. Chúng ta thấy vì sao giáo dục của ta thiên về áp đặt, uốn nắn người học theo chủ định của người dạy (thường đại diện cho mô hình, tư tưởng thống trị đương thời) ; trong khi giáo dục phương Tây thuận lợi hơn để chấp nhận quan điểm coi người học là chủ thể ; coi giáo dục là tạo điều kiện cho chủ thể ấy tự học, tìm tòi, phát kiến cái mới, cái chưa biết. Trong thời đại ngày nay, quan niệm nào sẽ hữu dụng và hiệu quả hơn, chắc không khó để xác định. Vấn đề là chúng ta có muốn học và có học được quan niệm phù hợp hơn ấy hay không.
PĐ. Thế kỷ 21 được nhận diện là một thế kỷ phức tạp, với sự lên ngôi của chủ nghĩa hỗn độn, với những sự kiện/sự cố không thể nào biết trước. Chỉ cách đây 2 năm thôi, chúng ta cũng không thể nào dự đoán trước về việc lại có ngày học sinh của chúng ta phải học online triền miên, thậm chí là phải làm quen với khai giảng online như lúc này. Trong một thế kỷ khôn lường như vậy, theo bà sự học của người Việt cần nhấn mạnh đến những khía cạnh nào?
BTP. Đã
là “thế kỷ khôn lường”,
tôi làm sao dám đề xuất việc
cần làm? Chỉ xin kể hai trải nghiệm
cá nhân qua đó tôi học được
đôi điều.
Cách đây mấy
năm, tôi may mắn dự cuộc tọa đàm
về sự phát triển của khoa học
công nghệ, đặc biệt là công
nghệ thông tin, giữa hai chuyên gia tầm
cỡ quốc tế và… người máy
Sophia. Cơ may đó đến với tôi
không phải ở New York hay Paris, mà ở
Erevan, thủ đô nước Armenia không
hề là nước lớn, nước giàu,
nước mạnh, làm tôi ngậm ngùi
nhớ Việt Nam. Nhưng ấn tượng mạnh
nhứt là tận mắt gặp, ngắm nhìn
và nghe Sophia chào hỏi duyên dáng,
tham gia đàm luận sôi nổi với các
chuyên gia, cuộc trao đổi không hề
có “kịch bản” soạn trước
như chúng ta hay thấy ở xứ mình
(cười). Tôi không khỏi rùng mình
khi trong cuộc nói chuyện, Sophia bật cười
rất đúng lúc, một tiếng cười
thú vị, hóm hỉnh. Trước đó,
vì ít nhiều hiểu thế nào là
cở vây, tôi đã chia sẻ sự
bàng hoàng của làng cờ vây và
dư luận quan tâm khi kỳ thủ hàng
đầu thế giới bị người máy
đánh bại. Rồi nay chứng kiến rô
bốt biết suy tư, tranh luận và cả
biết… cười. Tôi tự hỏi: “Sẽ
còn chỗ nào cho con người, nhứt
là người chỉ biết học vẹt
và chép lại văn mẫu?” Ừ
thì có thể tự an ủi: “Dẫu
sao, người máy ấy, AI ấy vẫn là
sản phẩm sáng tạo của con người.”
Nhưng là những con người nào,
được dạy ra sao và biết học
ra sao? Và mọi người sẽ phải học
ra sao để chung sống với những sản
phẩm khoa học công nghệ ngày càng
thông minh hơn, biết không ngừng tự
học (đó là lý do quan trọng
khiến người máy thắng được
kỳ thủ cờ vây đã tích lũy
bao tri thức, kinh nghiệm), lại còn biết
cảm xúc?
Trải nghiệm thứ hai là thực tế sống trong Sài Gòn phong tỏa từ mấy tháng qua vì Covid. Hình ảnh đường phố Sài Gòn vắng tanh vắng ngắt; số liệu về người nhiễm, người chết cứ tăng, những tin báo tử bất ngờ; những vật phẩm thông thường như ổ bánh mì, nắm rau gia vị bỗng thành quý hiếm… Nhưng cạnh đó, bao nhiêu hoạt động tận tâm, sáng tạo của tình nguyện viên, người hoạt động thiện nguyện để cứu giúp nhau; chung cư trước đây người đông nhung nhúc trong thang máy mà chẳng ai chào ai, nay người ta tự giác nhường nhau để giãn cách, mỗi người ẩn mặt sau khẩu trang, có người khư khư chai khử khuẩn, nhưng ánh mắt sau kính che giọt bắn vẫn lấp lánh nụ cười thân thiện; chỉ cần tin nhắn trên nhóm Zalo là người ta chia sẻ cho nhau từng lá rau thơm, từng kg gạo, gói mì; rồi nông sản được “giải cứu”, cư dân được mua thịt cá, rau quả giá phải chăng, trẻ em được quà Trung thu dù chỉ post lên Zalo hình mỗi cháu cầm lồng đèn sau cánh cửa đóng kín của căn hộ để cám ơn cô chú TNV…Người bán, người mua đồng lòng thanh toán qua ngân hàng để tránh tiếp xúc, dù số tiền rất nhỏ chỉ vài chục ngàn, nhiều ngân hàng không thu phí chuyển khoản; người bán lẻ, bà nội trợ biết thanh toán qua momo khỏi tốn phí. Người hiểu biết giải thích cho tôi là để làm được như vậy, đằng sau có nhiều thuật toán, nhiều thao tác kỹ thuật đã được công nghệ xử lý thành công. Học và thay đổi hàng loạt thói quen xấu hoặc sự lạnh lùng vô cảm thành ứng xử văn minh, tình nghĩa, để sống còn trong điều kiện khắc nghiệt hơn, mà lại sống tốt hơn, ân tình hơn. Biết học và biết thích nghi như vậy đã cứu đói cho bao người và làm cho cuộc sống phong tỏa bớt nặng nề với bao người khác. Ngược lại, cũng có những minh chứng không chịu học, học chậm, phải trả giá bằng tổn thất không đáng có. Thước đo chân lý không phải là người có quyền hay cấp trên (theo tư duy Nho giáo, giữ đúng tôn ti mới là trật tự, là “phải đạo”, trái lại là “loạn thần tặc tử”, là giặc bên trong); mà là thực tiễn. Cái đó, không phải phương Tây độc quyền nói và làm, mà minh triết dân gian Việt Nam cũng tin vậy, làm vậy, nhờ vậy dân tộc mới sống còn.
PĐ. Một
đặc điểm dễ thấy của thời
đại hôm nay chính là làn sóng
du học. Mọi gia đình nào có
điều kiện gần như đều tính
đến chuyện cho con em mình ra nước
ngoài học hành, nghiên cứu. Sự
giao lưu giáo dục, hợp tác giáo
dục trong thời toàn cầu hoá là
điều hết sức bình thường.
Nhưng tôi nghĩ chỉ khi nào điều
ngược lại xảy ra, tức là những
gia đình có điều kiện đều
tự tin cho con em học hành nghiên cứu
ngay tại đất nước mình thì
sự học của chúng ta mới có
những thay đổi mang tính nội lực
và thực chất. Quan điểm của bà
như thế nào?
BTP. Tôi
phần nào đồng ý với anh ở
bậc học mầm non và phổ thông, ít
nhứt là đến hết trung học cơ
sở. Quyền bình thường của trẻ
(cũng phù hợp với tâm lý thông
thường của phụ huynh) là được
lớn lên trong môi trường an toàn,
yêu thương của gia đình, quê
hương, đất nước mình. Phải
cho con rời xa gia đình, đi học dài
ngày trong môi trường xã hội,
văn hóa khác biệt với nhiều rủi
ro, thách thức, hẳn không là chọn
lựa dễ dàng. Chắc không vô cớ
mà người ta nói đến “tị
nạn giáo dục”. Nhưng có biết
bao câu chuyện thành công trong học
vấn từ người tị nạn thật, dù
bằng con đường du học hợp pháp
hay sau khi trải qua muôn trùng gian khó,
hiểm nguy. Khi chênh lệch về môi
trường, chất lượng giáo dục
quá lớn, quá hiển nhiên, một
lần nữa, thước đo là thực
tiễn. Tất nhiên, tôi cũng mơ ước
như anh, là con trẻ đỡ phải chịu
nhiều bất trắc như vậy trên đường
tìm học. Nhưng ta không chỉ mơ ước
suông mà được. Người ta sẽ
tự tin cho con ở lại khi nào giáo dục
trong nước có sự thay đổi thực
chất; chỉ e thay đổi đó không
thể ngủ một đêm sáng dậy là
có. Giải pháp trung gian là trao đổi
ngắn ngày giữa học sinh trong và
ngoài nước. Ở các nước phát
triển, người ta rất chú trọng
hoạt động này, không chỉ vì
người ta đủ giàu để trang
trải, mà chủ yếu vì người
ta hiểu lợi ích của việc trẻ
được mở rộng tầm nhìn, thích
nghi với môi trường sống không
quen thuộc. Học, không
phải chỉ trong trường lớp là vậy.
Nhưng đến đại học, người học đã trưởng thành. Đại học phương Tây từ thuở khai sinh (khoảng tk 11-12 ở châu Âu) đã có tính quốc tế, nghĩa là có rất ít đại học ở một vài thành phố. Người muốn học đại học phải từ xa đến trọ học. Cách đây hàng chục thế kỷ còn như vậy, huống hồ trong thế giới phẳng ngày nay. Nên tôi cho rằng được đi du học vẫn là một ưu thế mà nếu gia đình có điều kiện giúp con em, hoặc sinh viên nhờ xuất sắc mà có học bổng, đó là điều may mắn không chỉ cho cá nhân du học sinh. Vấn đề không chỉ là chất lượng giáo dục, mà còn là cơ hội trải nghiệm, cọ xát với môi trường mới, lối sống và văn hóa khác, mở rộng quan hệ xã hội, sẽ rất bổ ích cho việc phát triển tri thức và nhân cách thanh niên. Nếu du học sinh quay về, đất nước có lợi; nếu họ không quay về (chọn lựa cá nhân phụ thuộc phần không nhỏ vào thực tiễn sống và làm việc ở quê hương) họ có thể đóng góp từ xa cho đất nước; hoặc làm rạng danh dân tộc bằng cống hiến của mình cho nhân loại. Ngay khi họ chỉ sống bình thường, tử tế nhưng được phát huy năng lực bản thân, cũng góp phần tạo hình ảnh đẹp về người Việt cho cư dân nơi quê mới. Con người ngày càng tự do dịch chuyển để tìm cơ hội sống tốt hơn, kể cả trong và ngoài biên giới quốc gia là xu thế của thời đại không gì cưỡng lại được.
Tôi không muốn giảm cơ hội đó của số ít, mà quan tâm nhiều hơn đến số đông, Tôi mong những thanh niên không có cơ hội du học cũng được hưởng phần nào lợi thế tương tự. Chẳng hạn, bằng cách tạo môi trường quốc tế ngay trong dạy, học và nghiên cứu tại các trường ở Việt Nam, từ phổ thông và đặc biệt ở đại học. Chỉ cần một số ít giảng viên, chuyên gia, sinh viên quốc tế đến làm việc, dạy và học ở trường đại học Việt Nam thì rất đông GV, SV Việt Nam sẽ hưởng lợi. Con đường không trải hoa hồng, nhưng đó là giải pháp căn cơ để giảm dần chênh lệch về chất lượng giáo dục giữa trong và ngoài nước.
PĐ. Câu hỏi cuối cùng: Nếu môi trường giáo dục chưa được như mong muốn thì mỗi gia đình, mỗi cá nhân, mỗi người học cần có những “tự ngộ” như thế nào để có thể vượt thoát khỏi môi trường đó, thưa bà? Nếu được, bà có thể chia sẻ câu chuyện của chính mình được không?
BTP. Tôi nghĩ đã phần nào trả lời. Học là bản năng tự nhiên của muôn loài để sống còn, ai sinh ra cũng có khả năng học. Học không chỉ với thầy, không chỉ qua trường lớp; và trong thế giới ngày nay, thầy và trường lớp đều ngày càng có thể tiếp cận bất chấp khoảng cách địa lý. Ở Việt Nam, chúng ta đang dùng internet khá dễ dàng, rộng rãi. Chỉ cần có công cụ ngoại ngữ (mà ngoại ngữ cũng tự học được miễn phí bằng nhiều cách), bạn đã có cơ hội tự học vô số tri thức, cả qua sách vở hàn lâm và qua nhiều kênh khác. Có môi trường nào giam nhốt bạn được đâu nếu bạn thực sự ham học và biết học; chưa biết thì học từ sách, từ người khác, từ quan sát và hoạt động thực tế, từ trải nghiệm thành công và thất bại của chính mình. Tôi tin các bạn trẻ, nếu muốn, đều có khả năng tự giải độc đối với những định kiến thiếu căn cứ, tự bồi dưỡng nội lực của mình bằng tri thức, bằng năng lực tư duy. Bớt cảm tính, bớt a dua, sử dụng lý trí và sự phán đoán riêng của mình nhiều hơn, tự tin nhưng không tự phụ, cũng không ôm mãi niềm tự hào thiếu căn cứ; và dứt khoát từ bỏ cái ảo tưởng Việt Nam là đặc thù, là ngoại lệ. Các bạn hoàn toàn có khả năng đi xa hơn thế hệ trước, như xác tín dân gian: “Con hơn cha là nhà có phúc”.
Câu
chuyện của tôi may lắm chỉ gợi
vài suy gẫm chứ chắc không thể
“sao y” làm kinh nghiệm, vì tôi
sinh ra, lớn lên trong môi trường giáo
dục gia đình, nhà trường, xã
hội rất khác các bạn trẻ bây
giờ. Cho nên, vấn đề của tôi
không phải là vượt thoát môi
trường giáo dục bất lợi, mà
là làm sao không đánh mất những
hiểu biết, xác tín, nguyên tắc
sống của mình và không ngừng
tìm hiểu để theo kịp những đổi
thay hiện đại. Làm sao sống có
ích (như tôi đã được
học và thành tâm thấm nhuần ý
nghĩa cuộc đời là như vậy)
cho đất nước, dân tộc mình
yêu quý, mà vẫn là mình,
không đánh mất những giá trị
mình tin là chân lý và lẽ
phải, bất kể nó đến từ
phương trời nào, nó là xưa
hay nay, mình biết nó lâu rồi hay mới
biết. Tôi cũng may mắn có cơ hội
học hỏi từ những con người và
nền văn hóa khác, nên tôi quan
tâm so sánh, đối chiếu để mở
rộng hiểu biết của mình và chia
sẻ với người. Là người học
sử, tôi dành nhiều thời gian, nỗ
lực nghiên cứu quá khứ, nhưng tôi
dị ứng với kiểu nhai lại, hay huyền
thoại hóa, thiêng liêng hóa lịch
sử. Với tôi, học là học cái
chưa biết, là không ngừng tìm
tòi tư liệu, dữ liệu mới để
có hiểu biết mới, kiến giải mới
về quá khứ phong phú, đa dạng
còn tiềm ẩn bao điều chưa biết,
hay chưa biết rõ, chưa hiểu đúng,
hiểu đủ, hiểu sâu. Với tôi,
học luôn mở rộng sự tự do và
niềm vui sống của mình.
Bùi Trân Phượng
Phan Đăng (thực hiện)
(*) Nguồn. Bản tác giả gửi Diễn Đàn, một bản ngắn hơn đã đăng trên An Ninh Thế giới số 241, tháng 9.2021.
Các thao tác trên Tài liệu