Hội nhập quốc tế, cơ hội và thách thức - bài 1
Hội
nhập quốc tế,
cơ hội và thách
thức
Phạm Nam Kim (*)
LTS. Đây là bài mở đầu cho một loạt ba bài viết mà tác giả Phạm Nam Kim vừa gửi cho Diễn Đàn chung quanh chủ đề Hội nhập quốc tế, cơ hội và thách thức, viết lại có lớp lang và đầy đủ hơn bài tác giả đã trình bày trước một cử toạ gồm các thân hữu của Diễn Đàn ngày 24.4.2016.
Bài mở đầu này, lấy nhan đề chung cho ba bài, sẽ điểm qua quá trình hội nhập của Việt Nam vào kinh tế thế giới thông qua ba hiệp định lớn được ký kết gần đây: Cộng đồng kinh tế Asean, Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam - EU và Hiệp định Thương mại tự do xuyên Thái Bình Dương (quen gọi là TPP), mở ra những cơ hội lớn cho nền kinh tế quốc dân, với điều kiện vượt qua được những thách thức không hề nhỏ mà tác giả sẽ liệt kê.
Bài thứ hai sẽ trở lại Hiện tình kinh tế Việt Nam trong thập niên vừa qua, và bài cuối cùng đưa ra một số đề nghị thay đổi để nền kinh tế ấy có thể nắm bắt được những cơ hội mà cuộc hội nhập cho phép, những cơ hội luôn luôn có điều kiện như mọi người đều biết. Là một chuyên gia tài chính hoạt động lâu năm trong môi trường tài chính quốc tế tại Thuỵ Sĩ, và từ nhiều năm nay đã thường xuyên về nước làm tư vấn cho một số ngân hàng và doanh nghiệp Việt Nam, những đề nghị của ông thường cụ thể (và ngắn gọn, hợp với khuôn khổ một bài báo), hướng về thực hành hơn là lý thuyết, nhưng chứa đựng nhiều ý tưởng thiết nghĩ rất đáng được các nhà hữu trách suy ngẫm.
Xin trân trọng giới thiệu với bạn đọc.
Quá trình hội nhập
Năm 1986, đảng Cộng Sản Việt nam phát động chương trình cải cách kinh tế gọi là ‘Đổi mới’ và ý tưởng hội nhập đã thành hình, tuy còn rụt rè, với tuyên bố sau đây : “Muốn kết hợp sức mạnh của dân tộc với sức mạnh của thời đại, nước ta phải tham gia sự phân công lao động quốc tế; trước hết và chủ yếu là với Liên Xô, Lào và Campuchia, với các nước khác trong cộng đồng xã hội chủ nghĩa”. Phải đợi đến Đại hội VII, với sự sụp đổ của các nước ‘anh-em’, đặc biệt trong khối Comecon mới sửa lại câu trên và tuyên bố : “Việt Nam muốn là bạn với tất cả các nước trong cộng đồng thế giới, phấn đấu vì hoà bình, độc lập và phát triển”, có lẽ một phần cũng vì phong toả và cấm vận sau 75 và sau biến cố Campuchia đã dần dần được tháo gỡ.
Cũng phải nói ý tưởng của Đảng Cộng Sản Việt Nam, dập theo khuôn đảng Cộng Sản Trung Quốc là phát triển dựa trên 3 yếu tố, lao động rẻ tiền, môi trường thả lỏng để xuất khẩu dựa trên giá thành rẻ. Vì vậy hội nhập quốc tế là một đường lối tối quan trọng cho phát triển quốc gia.
Do vậy, thập niên 90 là những bước đầu cho hội nhập kinh tế VN với sự bình thường hoá quan hệ với Trung Quốc (1991), với Hoa Kỳ (1995). Việt Nam gia nhập tổ chức và hiệp hội kinh tế quốc tế trong năm 1995, Quỹ Tiền tệ Thế giới IMF, Ngân hàng Thế giới WB, và Ngân hàng phát triển châu Á ADB, Hiệp Hội các Quốc gia Đông Nam Á ASEAN và đến năm 1998 thì ta hợp tác với Diễn đàn Hợp tác Kinh tế Thái Bình Dương APEC.
Việt Nam gia nhập WTO trong năm 2007, và trong những năm vừa rồi ký một loạt hiệp định thương mại tự do song phương với những nước như Nhật, Chile, Hàn Quốc và những hiệp định trong khuôn khổ ASEAN với Ấn Độ, Trung Quốc, Úc, Nhật, v.v... Tính đến năm 2015, Việt Nam có quan hệ thương mại với 230 quốc gia, vùng lãnh thổ.
Trong những tháng vừa rồi Việt Nam đã ký kết 3 hiệp định quan trọng, có thể là một bước ngoặc lớn cho công cuộc hội nhập đó là Cộng đồng Kinh tế ASEAN (AEC), Hiệp định thương mại tự do Việt Nam – EU (EVFTA), Hiệp định Thương mại Xuyên Thái Bình Dương (TPP).
Cộng Đồng Kinh Tế ASEAN
Với văn bản ký kết ngày 22.11.2015, Cộng đồng kinh tế AEC đã hình thành và kết nối nền kinh tế của 10 quốc gia thành viên ASEAN: Indonesia, Malaysia, Philippines, Singapore, Thái Lan, Brunei, Việt Nam, Lào, Myanmar, Campuchia. Với một dân số 640 triệu người, tổng sản phẩm trong nước 2500 tỷ USD, AEC là một khối nhỏ trong cộng đồng thế giới nhưng là một thị trường tiềm năng, với những nhu cầu khá đồng nhất và mức độ phát triển (ngoại trừ Singapore) khá tương tự.
AEC là một cộng đồng kinh tế, tuy không có một cấu trúc chặt chẽ và một ý tưởng chính trị làm hậu thuẫn như Cộng đồng Châu Âu EU, nhưng AEC cũng đi xa hơn một hiệp định thương mại tự do với 4 mục tiêu chính là:
-
Một thị trường đơn nhất và cơ sở sản xuất chung, được xây dựng thông qua: Tự do lưu chuyển hàng hoá; tự do lưu chuyển dịch vụ; tự do lưu chuyển đầu tư; tự do lưu chuyển vốn và tự do lưu chuyển lao động có tay nghề;
-
Một khu vực kinh tế cạnh tranh, được xây dựng thông qua các khuôn khổ chính sách về cạnh tranh, bảo hộ người tiêu dùng, quyền sở hữu trí tuệ, phát triển cơ sở hạ tầng, thuế quan và thương mại điện tử;
-
Phát triển kinh tế cân bằng, được thực hiện thông qua các kế hoạch phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ (SME) và thực hiện sáng kiến hội nhập nhằm thu hẹp khoảng cách phát triển trong ASEAN;
-
Hội nhập vào nền kinh tế toàn cầu, được thực hiện thông qua việc tham vấn chặt chẽ trong đàm phán đối tác và trong tiến trình tham gia vào mạng lưới cung cấp toàn cầu.
Những mục tiêu trên được thể hiện thông qua 3 hiệp định:
-
Hiệp định thương mại hàng hoá ASEAN (ATIGA)
- Hiệp
định Khung về Dịch vụ ASEAN (AFAS)
-
Hiệp định Đầu tư Toàn diện
ASEAN (ACIA)
Với những hiệp định đã ký kết, tới cuối năm ngoái 100% mặt hàng thông thường không còn bị thuế nhập khẩu,Việt Nam cũng như các nước trong nhóm CLMV (gồm Campuchia, Lào, Myanmar và Việt Nam), được gia hạn cho 7% mặt hàng đến cuối 2018. Về thương mại dịch vụ, khi hoàn tất phê chuẩn nội bộ các nước thành viên ASEAN, thị trường này sẽ thông thoáng trên toàn cộng đồng. Hiệp định về tự do đầu tư có hiệu lực từ 2009, nét đặc biệt ở đây là một doanh nghiệp 100% vốn nước ngoại khối cũng được coi như doanh nghiệp trong khối và có quyền tự do đầu tư sang một nước khác trong khối. Về thuận lợi hoá đầu tư, các thị trường chứng khoán trong khối sẽ được hợp nhất sau thời gian thử thách giữa Thái Lan, Singapore và Malaysia. Trong hiện tại, tự do dịch chuyển lao động được hạn chế cho người lao động có kỹ năng trong một số ngành nghề (dịch vụ kỹ thuật, điều dưỡng, kiến trúc, khảo sát, hành nghề y khoa, nha khoa, kế toán, du lịch), tuy nhiên ngay trong hạn mức này, thị trường lao động Việt Nam cũng sẽ bị đe dọa vì thiếu tay nghề và thiếu hiểu biết về ngoại ngữ. Một khi tự do dịch chuyển cho người lao động được mở rộng, khó khăn cho người Việt sẽ tăng thêm, vì năng suất quá thấp và hạn chế trong những công việc tay, chân.
Hiệp định Thương mại Tự do Việt Nam – EU (EVFTA)
Ngày 2.12.2015 Việt Nam đã ký kết với EU Hiệp định thương mại tự do EVFTA, và hiệp định này sẽ có hiệu lực vào đầu năm 2018. EU, với một dân số 510 triệu người và tổng sản lượng quốc nội (GDP) 19.000 tỷ USD hiện đứng hàng đầu thế giới về sức mạnh kinh tế. Với vị trí đó, EU hiện là đệ nhất thị trường xuất khẩu của Việt Nam, là đối tác thương mại thứ nhì và chiếm hạng 3 trong số các quốc gia đầu tư vào Viêt Nam.
EVFTA là một hiệp định thương mại thế hệ mới, toàn diện gồm 6 chủ đề về kinh tế và một chủ đề về chính trị. Về Thương mại hàng hoá, hai bên cam kết xoá bỏ hàng rào quan thuế cho hơn 99% mặt hàng trong vòng 7 đến 10 năm, những rào cản về vệ sinh, chất lượng cũng được hai bên thống nhất về nội dung. Về thương mại dịch vụ và đầu tư, hai bên sẽ tạo những điều kiện thuận lợi cho một số lãnh vực như tài chính, viễn thông, vận tải, phân phối, v.v... Để đảm bảo một thị trường tự do, minh bạch EVFTA cũng đưa ra những thoả thuận về mua sắm của chính phủ, về sở hữu trí tuệ, về doanh nghiệp nhà nước và trợ cấp và về phát triển bền vững.
Về chính trị EVFTA cũng đề cập đến vấn đề dân chủ và nhân quyền. Vì thông tin này ít khi được phổ biến, xin trích dẫn dưới đây bản “Tóm lược nội dung EVFTA” do Hội đồng thương mại EU soạn thảo:
“…Promoting democracy and respect for human rights
In the preamble of the FTA the Parties reaffirm their commitment to the Charter of the United Nations signed in San Francisco on 26 June 1945 and have regard to the principles articulated in The Universal Declaration of Human Rights adopted by the General Assembly of the United Nations on 10 December 1948.
The FTA will also contain a legally binding link with the EU-Vietnam Partnership and Cooperation Agreement (PCA), signed in June 2012, which includes a human rights clause and provisions on cooperation on human rights. The PCA provides that human rights, democracy, and the rule of law are 'essential elements' in the overall relationship between the EU and Vietnam. Therefore, the link between the FTA and the PCA is important to ensure that human rights are also part of the trade relationship between the Parties. This would include the right to take appropriate measures, also in relation to the FTA (including its suspension), in case of major violations of these essential elements.
The agreement also includes a chapter on cooperation, as a means to contribute to the efficient implementation of the FTA. Boosting sustainable development in all its dimensions is a key objective for such cooperation, for which areas of particular importance include labour and environmental matters, trade facilitation, and SMEs. This chapter is placed under the existing EU-Vietnam Framework Cooperation Agreement (FCA).”
Khuyến khích dân chủ và tôn trọng nhân quyền
Trong lời nói đầu của FTA, các Bên khẳng định lại cam kết tuân thủ Hiến chương Liên hiệp quốc ký tại San Francisco ngày 26 tháng 6 năm 1945 và quan tâm tới những nguyên tắc được nêu ra trong Bản Tuyên bố Phổ quát về Nhân quyền được Đại hội đồng LHQ thông qua ngày 10 tháng 12 năm 1948.
FTA cũng sẽ bao gồm một liên kết có tính bó buộc về pháp lý tới Thoả ước về Hợp tác và Đối tác EU – Việt Nam (PCA), ký trong tháng 6.2012, trong đó có một đoạn nói về nhân quyền và những điều khoản về sự hợp tác về nhân quyền. PCA nêu rõ rằng nhân quyền, dân chủ và pháp trị là những “phần tử thiết yếu” trong mối quan hệ toàn bộ giữa EU và Việt Nam. Như vậy, liên kết giữa FTA và PCA là quan trọng để bảo đảm rằng nhân quyền cũng có phần trong quan hệ thương mại giữa các Bên. Điều này có nghĩa là (các Bên) có quyền lấy những biện pháp thích hợp, trong tương quan với FTA (kể cả việc ngưng áp dụng hiệp định này), trong trường hợp có những vi phạm nghiêm trọng các phần tử thiết yếu này.
Thoả ước cũng bao gồm một chương về hợp tác, như một phương tiện góp phần thực hiện FTA một cách hữu hiệu. Thúc đẩy phát triển bền vững trong mọi chiều kích là một mục tiêu cốt lõi cho sự hợp tác này, trong đó những địa hạt có tầm quan trọng đặc biệt bao gồm các vấn đề lao động và môi trường, sự hỗ trợ thương mại và các doanh nghiệp nhỏ và vừa. CHương này được đặt vào Hiệp định hợp tác Khung đã có giữa EU và Việt Nam.
(bản dịch không chính thức của Diễn Đàn, do phía VN không phổ biến đoạn này)
Hiệp định Thương mại tự do xuyên Thái Bình Dương TPP
TPP
đã được các nước ký
kết ngày 4.02.2106 và sau khi được
các quốc hội phê duyệt sẽ có
hiệu lực trong năm 2018. TPP quy tụ 12 quốc
gia quanh Thái Bình Dương, bao gồm :
Australia, Brunei, Canada, Chile, Malaysia, Mexico, New Zealand,
Peru, Mỹ, Singapore, Nhật Bản và Việt
Nam. Dân số của khối là 805 tr. người
với tổng thu nhập là 28.000 tỷ USD
(36,3% toàn thế giới). Với sự hình
thành của một khối vững mạnh như
vậy, hẳn nhiên địa kinh tế hoàn
cầu đã dịch chuyển từ Bắc
Đại tây Dương qua Thái Bình
Dương.
Tuy nhiên không phải mọi
quốc gia Thái Bình Dương đều
gia nhập TPP, Trung Quốc không được
mời tham dự. Có nhiều nhà phân
tích cho rằng đó là chủ tâm
của Mỹ muốn gạt TQ ra ngoài và
giữ thế mạnh trên Thái Bình
Dương. Sự can thiệp của Mỹ ở
Biển Đông cũng đi theo hướng
chiến lược này.
Để gạt TQ
ra ngoài cách tốt nhất là đưa
vào hiệp định TPP những điều
khoản liên quan đến bảo vệ người
lao động, bảo vệ môi trường
và giảm thiểu doanh nghiệp nhà nước,
phá đổ mô hình phát triển
kinh tế của nước này.
Để
đối mặt với mối đe dọa này,
TQ vội vàng khởi xướng Ngân hàng
đầu tư cơ sở hạ tầng Châu
Á (AIIB) về thương mại mở đàm
phán thiết lập Hiệp định đối
tác kinh tế toàn diện khu vực,
Regional Comprehensive Economic Partnership (RCEP).
RCEP chính
thực là câu trả lời của Trung
Quốc cho hiệp định TPP và gồm các
quốc gia ASEAN, TQ, Úc, Ấn Độ, Nhật
Bản, Hàn Quốc và New Zealand.
Khi hình
thành, RCEP sẽ quy tụ 1/2 dân số thế
giời, ¼ GDP toàn cầu và là
một khối nằm sát nách TPP. Kinh tế
thế giới sẽ ở thế chân vạc
với 3 phe TPP, RCEP và EU, chia nhau 85% GDP thế
giới.
Trong cuộc hơn thua giữa hai khối
TPP và RCEP, có những quốc gia đi nước
đôi, gia nhập cả hai khối, trong đó
có Việt Nam. Phải chăng những quốc
gia này là cầu nối giữa hai phe và
ở giữa trục lợi hay sẽ bị áp
lực của cả hai bên, tương lai sẽ
trả lời.
Bản đồ các nước tham gia TPP
(trên) và RCEP (dưới)
TPP
mặc dù lấy tên là hiệp định
thương mại tự do nhưng đi rất
xa hơn những hiệp định cùng loại
thông thường. Ý đồ của những
nhà sáng lập là làm sao bảo
đảm thị trường trong khối hoàn
toàn tự do. Muốn vậy, luật chơi
của thị trường tự do phải được
tôn trọng, có nghĩa là bên cung
cũng như bên cầu không một ai có
thể chi phối được thị trường.
Tất cả các điều khoản trong hiệp
định TPP đều muốn đi đến
mục tiêu đó cho thị trường
hàng hoá, dịch vụ và vốn. Đối
với chính quyền các quốc gia, TPP gỡ
bỏ những hàng rào thuế má,
luật lệ, thủ tục hành chính và
những cánh tay dài của nhà nước
trên thị trường là những doanh
nghiệp nhà nước. Về nguồn cung,
TPP cũng ngăn chặn những ưu thế cho
các doanh nghiệp sống nhờ sự thả
lỏng bảo vệ môi trường, bảo
vệ người lao động, bảo vệ sở
hữu trí tuệ. TPP cũng không muốn
tình trạng cá lớn ăn hiếp cá
bé trên thị trường, nên một
mặt ngăn chận những hành động
tiêu cực của những tập đoàn
đa quốc gia, những doanh nghiệp lớn và
mặt khác bảo vệ, nâng đỡ
những doanh nghiệp vừa và nhỏ. Nhất
thiết để bảo vệ sự công bằng
trên thị trường TPP ngăn chặn tham
nhũng và những hành động tiêu
cục hành lang.
Do vậy, khi một quốc
gia gia nhập TPP, căn bản phải có một
nền kinh tế thị trường theo đúng
nghĩa của nó.
Cơ hội và thách thức
Với
3 hiệp định thương mại tự do
vừa ký kết, AEC, EVFTA và TPP, một
thị trường vĩ đại và đầy
hứa hẹn đã được mở ra.
Thị trường này là 2 tỷ người
tiêu thụ, GDP 50.000 tỷ USD – 2/3 GDP thế
giới và sức mua là trên 30.000 USD /
đầu người, những con số trên
chứng tỏ thị trường này rất
tiềm năng, nhưng đòi hỏi của
người tiêu thụ cũng rất cao và
cạnh tranh trên thị trường cũng
khốc liệt . Muốn tiếp cận thị
trường này không những mặt hàng,
hay dịch vụ của ta phải có chất
lượng thực mà kỹ năng tiếp
thị của ta cũng phải vượt trội
các đối thủ cạnh tranh.
Đây
là thị trường hàng đầu cho
xuất khẩu nông nghiệp, nếu sản
phẩm của ta đặt được những
tiêu chuẩn khắt khe về vệ sinh và
chất lượng và mặt hàng hợp
với nhu cầu thị trường.
Đây
cũng là đầu ra đầy hứa hẹn
cho sản phẩm công nghệ, dù từ
doanh nghiệp Việt Nam hay từ doanh nghiệp vốn
nước ngoài, nhưng muốn thoát hàng
rào hải quan, phải chứng minh là xuất
xứ của nguyên vật liệu đầu
vào là Việt Nam hay một quốc gia khác
trong khối (TPP). Ngoài ra, như đã nói
ở trên, sản phẩm công nghiệp phải
có chất lượng, đáp ứng nhu
cầu và thị hiếu người tiêu
dùng và tiếp thị một cách
thông minh.
Thị
trường vốn từ 3 khối trên không
phải là nhỏ và Việt Nam có sức
thu hút đầu tư rất mạnh khi có
mức tăng trưởng GDP cao nhất so với
các quốc gia trong 3 khối, khi được
các nhà đầu tư đánh giá
là ổn
định chính trị và kinh tế vĩ
mô. Ta phải phân biệt 2 thị trường
vốn đầu tư, đó là đầu
tư vốn FDI và bên cạnh là đầu
tư vốn tài chính.
Về đầu
tư FDI, Việt Nam thuộc nhóm quốc gia
gọi là China+ (Nhóm quốc gia thay thế
TQ trong chức năng “cơ xưởng Thế
giới” vì những điều kiện
sản xuất ở TQ đã trở thành
thiếu phần hấp dẫn), và nhìn
những quốc gia trong khối TPP hay EVFTA, Việt
Nam có một ưu thế đáng kể.
Vì VN có tự do thương mại với
2/3 GDP thế giới, các quốc gia ngoài
những khối nói trên cũng rất quan
tâm sản xuất ở Viêt Nam nếu có
thế cung ứng nguyên vật liệu và
phụ kiện từ VN hay các quốc gia trong
khối. Ta cũng không nên quên sự
quan tâm của vốn FDI đến thị
trường nội địa, với 100 triệu
người tiêu thụ và thu nhập thuộc
loại trung bình, bằng cớ, theo thông
tin của Bộ Công Thương, vốn từ
Singapore, Malaysia và Thái Lan đổ vào
thị trường nội địa Việt
Nam.
Khi mức lãi suất trên thế
giới, ở mức bằng 0, nếu không
muốn nói đến lãi suất âm,
khi thị trường chứng khoán thế
giới tổng thể quay đầu đi xuống
thì đầu tư tài chính ở một
nước mới nổi như Việt Nam trở
nên rất hấp dẫn. Vấn đề là
ta phải có một thị trường tài
chính tự do, thông thoáng, minh bạch
và phải đi tiếp cận nguồn vốn
ngay tại nơi xuất xứ.
Để có thể nắm bắt được những cơ hội nói trên, Việt Nam phải vượt qua một số thách thức và cũng là những cơ hội gián tiếp, để ta thay một số vấn đề căn bản của nền kinh tế quốc gia.
Như
đã nói ở trên muốn thực sự
gia nhập các Khối nói trên, phải
có sự đồng nhất của cơ chế
các nền kinh tế, đó là kinh tế
thị trường. Đó là thách
thức căn bản của Việt Nam, đến
thời điểm hiệu lực của hiệp
định, cơ chế thị trường phải
thực sự có ở VN.
Để tiếp
cận những thị trường nói trên,
ta phải có một mô hình tăng
trưởng phù hợp, hài hòa với
môi trường kinh doanh mới.
Đi đôi
với mô hình, phải có một chiến
lược cạnh tranh và một lộ trình
phát triển thực tiễn, đó là
thách thức căn bản thứ ba cho ta.
Để
nắm bắt những cơ hội nói trên,
nhân sự là chính, ta phải đào
tạo con người cho sự đổi mới
toàn diện, từ đạo đức cho
đến kỹ năng kỹ thuật và
ngoại ngữ. Với một cơ chế thị
trường tự do, người lao động
rất dễ bị chèn ép, do vậy ta
phải bảo vệ người lao động
thông qua luật pháp và sức mạnh
của liên đoàn lao động độc
lập.
Với sự phát triển công
nghệ vấn đề bảo vệ môi
trường là một vấn đề thiết
yếu cho dân tộc cũng như cho nhân
loại, ta không thể để xẩy ra những
sự cố như biển bùn bauxite đỏ,
cá chết hàng loạt, không khí
ngạt thở ở thủ đô, v.v.
Hội nhập kinh tế quốc tế với những hiệp định EVFTA, TPP và sự hình thành của Cộng đồng AEC mở cho Việt Nam những cơ hội phát triển hy hữu, nhưng nắm bắt những cơ hội này là đầy thách thức. Câu hỏi đặt ra là liệu nền kinh tế quốc gia có đủ khả năng vượt qua những thách thức và nắm bắt những cơ hội trên? Xin đọc tiếp bài 2 “Hiện tình kinh tế Việt Nam trước ngưỡng cửa hội nhập quốc tế”.
Phạm Nam Kim
(*) Chuyên gia tài chính, Thuỵ Sĩ.
Các thao tác trên Tài liệu