Bạn đang ở: Trang chủ / Việt Nam / Một số vấn đề làm xói mòn niềm tin vào khoa học Việt Nam

Một số vấn đề làm xói mòn niềm tin vào khoa học Việt Nam

- Doãn Minh Đăng - Ngô Đức Thế — published 29/10/2021 12:00, cập nhật lần cuối 27/10/2021 15:29

Số đặc biệt Diễn Đàn 30 tuổi


Một số vấn đề làm xói mòn niềm tin
vào khoa học Việt Nam


Doãn Minh Đăng, Ngô Đức Thế



Tóm tắt: Nền khoa học mỏng manh của Việt Nam có lẽ đang gặp cuộc khủng hoảng niềm tin, không phải ở khả năng tạo ra các phát kiến lớn lao mà là ở những yếu tố cơ bản hơn: công chúng ngày càng có thêm lý do để nghi ngờ tính trung thực của hệ thống khoa học, bức xúc trước tinh thần khôn lỏi của một số tổ chức làm khoa học. Để tránh xây tòa lâu đài trên cát, khoa học Việt Nam cần những nỗ lực cần mẫn, đi những bước chậm mà chắc để xây dựng cộng đồng khoa học tích cực và có ích đối với sự phát triển chung của xã hội.


Sự suy giảm niềm tin vào khoa học Việt Nam


Cuối năm 2020, đợt xét tiêu chuẩn chức danh giáo sư, phó giáo sư ở Việt Nam đã để lại nhiều tai tiếng khi giới học thuật đặt ra những nghi vấn về năng lực khoa học của khá nhiều ứng viên. Trong số 416 hồ sơ được chuyển lên các hội đồng giáo sư ngành, dù các hội đồng ngành đã loại hơn 100 ứng viên, vẫn còn nhiều ứng viên bị cộng đồng khoa học đánh giá không đủ năng lực nghiên cứu khoa học, nổi cộm là ở nhóm ngành Dược và Y có tỷ lệ lớn ứng viên bị đòi hỏi xét lại. Kết quả của cuộc xét lại sau những thảo luận dài ngày trên báo chí và các diễn đàn khoa học là phần lớn những trường hợp bị nghi vấn đều được các hội đồng xét duyệt thông qua, khiến không ít nhà khoa học cảm thấy không thuyết phục và thiếu tin tưởng vào hệ thống xét tiêu chuẩn chức danh này (xem [1-4] và các bài được liên kết đến). Ngoài ra, chuyện lùm xùm về việc một ứng viên giáo sư chuyên ngành cơ học với hồ sơ công bố khoa học khủng bị loại vì nghi vấn vi phạm liêm chính học thuật càng làm cho công chúng thấy cám cảnh cho giới khoa học nước nhà ([5], [6]).

Việc hệ thống xét tiêu chuẩn chức danh giáo sư, phó giáo sư bị phê bình là không đảm bảo tiêu chí về khoa học góp phần làm giảm niềm tin của công chúng đối với khoa học ở Việt Nam. Trong những năm gần đây, trên thế giới cũng có xu hướng xã hội dần dần mất niềm tin vào khoa học, vì những lý do khác nhau. Bài xã luận “Saving Science” trên tạp chí The New Atlantis đã nêu những vấn đề gây tổn hại lâu dài cho khoa học ở Mỹ, có một lý do lớn là các cơ quan tài trợ đổ tiền vào khoa học để nuôi dưỡng sự khám phá tri thức mà không đòi hỏi đóng góp trực tiếp cho xã hội [7]. Cơ chế xét duyệt tài trợ cho nghiên cứu của các nguồn quỹ lớn ở Mỹ như NSF (National Science Foundation), NIH (National Institutes of Health) và cuộc tranh đua “publish or perish” dẫn đến một tầng lớp nhà khoa học tập trung vào việc viết dự án xin tiền, làm nghiên cứu để đánh bóng hồ sơ của họ nhằm xin được tiền cho dự án tiếp theo. Nhiều dự án nghiên cứu thực nghiệm tốn kém tạo ra các công bố khoa học dựa trên dữ liệu không khách quan hoặc bị uốn nắn một cách có chủ ý, dẫn đến kết quả khó có thể lặp lại, và phải mất nhiều năm sau để sai sót được phát hiện. Tác giả bài báo có nhận định là khoa học không thể tự điều chỉnh (self-correcting) trước những vấn đề sinh ra do cơ chế tài trợ nghiên cứu đang được sử dụng, mà khoa học sẽ tự xuống cấp (self-destructing) nếu không có sự can thiệp từ bên ngoài cộng đồng khoa học. Những cuộc điều tra hậu nghiên cứu cho thấy một tỷ lệ không nhỏ kết quả nghiên cứu khoa học có vấn đề (xem thêm sự quan ngại của giới khoa học ở [8]), góp phần làm suy giảm niềm tin của công chúng vào khoa học. Trong diễn biến dịch Covid-19, có một luồng tâm lý không tin tưởng vai trò của khoa học, hoặc ít nhất là giới lãnh đạo khoa học; tâm lý này là sự trộn lẫn của các thuyết âm mưu gắn dịch bệnh với chính trị và trào lưu chống vắc xin nổi lên ở các nước phát triển những năm gần đây, mà đằng sau nó là trạng thái hoài nghi rằng khoa học bị lạm dụng và xa rời chân lý khách quan.

Nền khoa học Việt Nam có lẽ còn có nhiều vấn đề hơn so với ở các nước phát triển, với nhiều bê bối dần bị phanh phui nhờ sự phản biện tích cực của báo chí và những nhà khoa học chính trực. Những bê bối khoa học ở Việt Nam ngày càng làm cho công chúng có cái nhìn thiếu thiện cảm về giới khoa học - những người thường bị xem là chỉ viết ra những công trình để cho vào ngăn kéo - và đang đe dọa tới sự lớn mạnh của nền khoa học nước nhà. Hầu như năm nào cũng có xì căng đan liên quan đến công tác xét tiêu chuẩn chức danh giáo sư, phó giáo sư làm cho sự kiện này thành chủ đề đàm tiếu hàng năm giữa những người quan tâm đến khoa học và giáo dục. Dân chúng dần coi thường hệ thống chức danh khoa bảng, bớt tin tưởng các phát ngôn của những người lãnh đạo khoa học, và tệ hơn là suy giảm niềm tin vào khoa học để đi tìm chỗ dựa nơi tâm linh hay những thầy lang băm. Mặt khác, giới quản lý cũng có vẻ coi thường khoa học, khi họ thấy nhan nhản những nhân vật lãnh đạo khoa học có quyền lực nhưng không đủ uy tín khoa học. Một hậu quả tức thời là trong việc phòng chống dịch Covid-19 ở Việt Nam, vai trò của tri thức khoa học khá mờ nhạt, giới khoa học không thể hiện được chức năng dẫn đường trước thách thức lớn nảy sinh, lý do có thể là vì họ thiếu sức thuyết phục dân chúng, và không được hệ thống chính trị đề cao trong việc chống dịch.

Một vấn đề đang ngày một trở nên bức xúc trong cộng đồng khoa học Việt Nam là chuyện các trường đại học (sau đây sẽ viết ngắn là trường) chạy đua về công bố khoa học nhằm tìm kiếm vị trí trên các bảng xếp hạng đại học quốc tế. Một trong những cách đạt được mục tiêu này nhanh và rẻ là bỏ tiền “mua” những công trình nghiên cứu không được thực hiện tại các trường để các công trình này được gắn mác của đơn vị đó. Cách này đã làm tăng rất nhanh số lượng các bài báo khoa học quốc tế có địa chỉ từ Việt Nam trong vài năm trở lại đây, nhưng trong đó có không ít bài báo thuộc dạng rác khoa học. Đó là những bài đăng trên các tạp chí quốc tế nhưng chất lượng thấp (những bài báo hầu như không có trích dẫn, đăng ở những tạp chí in bài hàng loạt mà không cần biết có ai sẽ xem), và cả những bài đăng ở tạp chí tốt nhưng bản chất là do tác giả nước ngoài viết rồi “bán” cho các trường ở Việt Nam dưới danh nghĩa “hợp tác khoa học”. Loạt bài trên báo Thanh Niên từ tháng 8/2020 (xem [9-13]) đã bóc tách dần câu chuyện về một chợ đen mua bán bài báo khoa học đang hình thành tại Việt Nam, liên quan đến hàng loạt trường mới nổi nhờ việc mua bán bài báo, hàng loạt các “siêu nhân” mới đến từ nước ngoài - những người có số lượng bài báo lớn tới mức không tưởng và đồng thời xuất bản ở nhiều lĩnh vực khác nhau. Việc mua bán bài báo cũng kéo theo một số lượng không nhỏ các nhà nghiên cứu trong nước rơi vào cơn bão này: nhẹ thì là hàng loạt nhà nghiên cứu làm việc tại một trường, nhưng thản nhiên viết bài báo gắn tên một vài trường khác để kiếm tiền thưởng; nặng thì xuất hiện một số nhà nghiên cứu bị tình nghi là “đầu nậu” - mua bài báo từ các đường dây xuất bản nước ngoài để kiếm tiền thưởng và thăng tiến. Nguy hiểm hơn, đã xuất hiện một số nhóm thản nhiên rao bán các bài báo, quảng cáo các dịch vụ đăng bài báo quốc tế (xem vài ví dụ ở [14], [15]). Nguy cơ Việt Nam theo đuôi Trung Quốc trở thành một chợ đen mua bán các công trình khoa học đang ngày một lớn dần.

Nguồn tài chính được các trường dùng cho mục đích tăng số lượng bài báo có lẽ chủ yếu đến từ tiền thu học phí, nhưng sinh viên của trường khó có thể hưởng lợi từ những bài báo đó khi các tác giả không làm việc tại trường và chủ đề bài báo cũng ít liên quan đến hoạt động đào tạo của trường hoặc thực tiễn Việt Nam. Do vậy, đã có những chất vấn về tính hiệu quả và tính đúng đắn của các khoản chi đó, tuy nhiên chúng hầu như không được các trường phản hồi. Mới vài năm trước, xã hội còn hồ hởi khi có tin một số trường ở Việt Nam chen chân vào các bảng xếp hạng đại học trên thế giới, nay người ta thấy những trường thăng hạng nhanh nhất hầu như là nhờ chiêu trò mua danh qua những bài báo khoa học. Thất vọng về cách chạy đua xếp hạng của những trường đó cũng làm xã hội dần mất niềm tin về định hướng nâng cấp các trường đại học Việt Nam theo tinh thần hội nhập quốc tế, nhằm dùng trường đại học làm động cơ thúc đẩy tiếp cận tri thức hiện đại và nâng cao dân trí (*). Bên cạnh đó, chính sách kích thích số lượng công bố quốc tế kiểu ăn xổi của lãnh đạo một số trường đã gây ảnh hưởng đến nhân sinh quan của thế hệ nhà nghiên cứu trẻ, họ không được cổ vũ để tập trung vào những giá trị khoa học thật sự, mà lãng phí công sức để xây dựng danh tiếng ảo, không tạo ra sản phẩm có giá trị mà tạo ra nhiều “rác”. Nguy cơ của một nền khoa học ảo với các công trình gắn mác Việt Nam đang hiện hữu.


Cần những nỗ lực để giải cứu khoa học Việt Nam


Các thách thức mà nền khoa học Việt Nam hiện đang gặp phải, có lẽ cần nỗ lực từ nhiều phía để can thiệp cả trong ngắn hạn lẫn mục tiêu dài hạn, với sự tham gia của những đối tượng liên quan (stakeholders) cả bên trong lẫn xung quanh cộng đồng khoa học.

Về chính sách quản lý của nhà nước, một nhu cầu cấp thiết và cũng cần điều chỉnh dài lâu, là cải tiến hệ thống quản lý tài chính đối với các viện, trường thuộc khu vực công để trở nên gọn nhẹ, ít thủ tục hành chính, nhưng luôn có sự tham gia kiểm toán chặt chẽ đối với tài chính khoa học. Từ câu chuyện mua bán bài báo [9-13], chúng ta có thể tự hỏi vì sao tiền từ các trường ở Việt Nam có thể dễ dàng chảy vào túi các siêu nhân đầu nậu nước ngoài mà không thể kiểm tra dòng tiền? Các viện, trường nên được chuyển dần sang cơ chế tự chủ và kèm theo trách nhiệm giải trình, cần định kỳ kiểm toán độc lập để việc chi tiêu cho hoạt động khoa học được minh bạch.

Cơ chế giải trình cũng đòi hỏi các viện, trường có sự tương tác với những đối tượng liên quan khác như doanh nghiệp sử dụng nhân lực được trường đào tạo hoặc kết quả nghiên cứu của trường để triển khai, nông dân chịu tác động của biến đổi khí hậu, bệnh nhân trông chờ vào tiến bộ y học để chữa bệnh… Những phản hồi và nhu cầu của các đối tượng bên ngoài sẽ giúp điều chỉnh định hướng làm đào tạo và nghiên cứu khoa học của các viện, trường để thực sự hữu ích, làm tăng hiệu quả của khoản đầu tư vào khoa học công nghệ vốn đang thiếu hụt ở Việt Nam.

Giữ vai trò đặc biệt quan trọng là tự thân cộng đồng khoa học, bởi họ “ở trong chăn mới biết chăn có rận”. Những người hoạt động khoa học sẽ cảm nhận sớm nhất những vấn đề mà họ và tổ chức của họ đang gặp phải, có hiểu biết về cách thức hoạt động cụ thể để nêu vấn đề và thảo luận về cách giải quyết. Với xu hướng hội nhập và cạnh tranh quốc tế không thể đảo ngược, nội bộ cộng đồng khoa học cần tự tổ chức để xây dựng văn hóa khoa học, khuyến khích và thúc đẩy các hoạt động nghiên cứu nghiêm túc, có giá trị cho khoa học và giáo dục, cũng như có ích cho cuộc sống. Bên cạnh đó, việc phát triển các khóa học cơ bản về liêm chính khoa học, hay các quy tắc chuẩn mực về đạo đức khoa học cần được đẩy mạnh ngay từ bậc học đại học hay sau đại học. Vai trò của những nhà khoa học tiền bối trong việc dẫn dắt các thế hệ trẻ không bị lạc lối trong cơn bão vi phạm liêm chính vì cơm áo gạo tiền cũng trở nên rất quan trọng.

Gần đây, có tín hiệu tích cực trong các hoạt động khoa học ở Việt Nam, đó là sự hình thành những nhóm, mạng lưới chuyên gia làm khoa học nghiêm túc trong một số lĩnh vực, sử dụng sự thuận tiện của môi trường mạng internet để tăng cường trao đổi về chuyên môn, thúc đẩy hình thành những quan hệ hợp tác giữa các nhóm nghiên cứu người Việt trong và ngoài nước, ví dụ như Y Học Cộng Đồng [16], Vietnamese Chemical Association [17], IBSG [18]. Một hướng phát triển khác là sự hình thành những diễn đàn để trao đổi về các vấn đề trong cộng đồng khoa học, nhằm thảo luận đa chiều để xây dựng lực lượng khoa học và sửa chữa những khiếm khuyết trong cộng đồng khoa học. Một ví dụ cụ thể là diễn đàn Liêm Chính Khoa Học, diễn đàn này được hình thành vào tháng 9/2020, xuất phát từ việc một số nhà khoa học tham gia vạch mặt những hiện tượng mua bán bài báo khoa học và nêu mối quan ngại về việc chạy đua thành tích ảo của một số trường đại học tại Việt Nam. Dần dần, giới làm khoa học, giảng viên các trường đại học cùng những người mới làm nghiên cứu khoa học đã dùng diễn đàn này để bàn về những chủ đề khá đa dạng, từ các hướng dẫn cho những nhà nghiên cứu trẻ để rèn luyện kỹ năng nghiên cứu, đến các khóa đào tạo về đạo đức nghiên cứu, mổ xẻ những vấn đề của Việt Nam và trên thế giới về liêm chính khoa học, xếp hạng đại học, quản trị đại học, gồm cả những gợi ý về việc thể chế hóa liêm chính học thuật ở Việt Nam, bên cạnh những điều tra về các cá nhân hoặc tổ chức có dấu hiệu bê bối trong hoạt động khoa học (xem danh mục các thảo luận ở [19]). Môi trường mở mà các công cụ mạng xã hội mang đến đã được các nhà khoa học vận dụng để bàn về những vấn đề cố hữu hoặc cấp thiết đang nảy sinh, vốn không mấy khi được đối tượng cụ thể nào đó xem là trách nhiệm mình phải giải quyết. Ở những thảo luận mà các diễn đàn như Liêm Chính Khoa Học đang xây dựng, có nhiều góp ý ngắn gọn nhưng bổ sung thông tin, góc nhìn khác, dần dần vấn đề được phát biểu rõ ràng và cũng thu hút người thảo luận liên hệ với kinh nghiệm ở nơi khác để phần nào tiếp cận việc tìm giải pháp.

Những nỗ lực để giải cứu khoa học ở Việt Nam tuy có tiến bộ, nhưng cần được thực hiện bền bỉ và mạnh mẽ. Khả năng phát triển và trở nên hữu ích của khoa học Việt Nam phụ thuộc nhiều vào việc nhận diện và giải quyết những vấn đề lớn của nó, những vấn đề đó cần sự tương tác của giới khoa học với những đối tượng khác, và giới khoa học cần chủ động tham gia những thảo luận về các vấn đề đó. Sẽ cần nhiều thời gian để xây dựng lại niềm tin của công chúng vào tính trung thực của hệ thống khoa học, năng lực quản lý và hiệu quả đầu tư của các tổ chức làm khoa học, và cao hơn là liệu khoa học có thể dẫn đường để giải quyết các vấn đề thiết thực trong cuộc sống.


------------

(*) Về ý nghĩa, vai trò của đại học từ thời Trung cổ tới nay, xin đọc cuốn sách Đại Học của Nguyễn Xuân Xanh, nxb Tổng hợp TPHCM 2018, được giới thiệu trong bài [20].


Doãn Minh Đăng - Ngô Đức Thế 


Cảm ơn


Các tác giả cảm ơn những gợi ý và công sức biên tập của TS. Dương Tú, một nhà khoa học tích cực hỗ trợ cộng đồng khoa học để nâng cao đạo đức và tinh thần làm khoa học qua diễn đàn Liêm Chính Khoa Học mà anh sáng lập và theo sát trong thời gian qua.

Tài liệu tham khảo


[1]. Chủ đề: Lùm xùm xét chức danh GS, PGS năm 2020:

​[2]. Xét công nhận GS/PGS 2020: Góc khuất

[3]. Những tạp chí yếu kém đăng công bố quốc tế của nhiều ứng viên GS/PGS ngành Y Dược:

[4]. Vớt hương dưới đất bẻ hoa cuối mùa

[5]. Người có nhiều trích dẫn trên thế giới bị loại khỏi danh sách xét GS

[6]. Thử tìm hiểu tại sao ứng viên Nguyễn Thời Trung bị loại khỏi danh sách xét công nhận giáo sư?

[7]. Saving Science

[8]. How Much Scientific Research Is Actually Fraudulent?

[9]. 'Thị trường ngầm' mua bán bài báo khoa học

[10]. Chiêu trò để trường đại học được xếp hạng quốc tế

[11]. Thành tích ảo trong nghiên cứu khoa học: Các trường đại học Việt Nam có thể đang bị 'ăn thịt'

[12]. Thủ thuật khai man nhiệm sở để thăng hạng đại học: Hiện tượng các trường Việt Nam

[13]. Thành tích ảo trong nghiên cứu khoa học: ‘Chất độc’ bắt đầu phát tác

[14]. Chuyện SV gian lận: ngành công nghiệp viết thuê assignment và luận văn

[15]. Vài thông tin về các dịch vụ viết thuê bài báo ở Việt Nam

[16]. Y Học Cộng Đồng

[17]. Vietnamese Chemical Association

[18]. Khoa Học và Công Nghệ Sinh Học (IBSG)

[19]. Danh mục bài viết ở diễn đàn Liêm Chính Khoa Học

[20]. Giới thiệu sách Đại học của Nguyễn Xuân Xanh.

Các thao tác trên Tài liệu

được sắp xếp dưới: Kỷ yếu 30 năm
Các số đặc biệt
Ủng hộ chúng tôi - Support Us