Những thế giới song song và Cách mạng Công nghiệp 4.0
Những thế giới song song
và Cách mạng Công nghiệp 4.0
Pierre Darriulat

Người công nhân này dùng phễu nhôm để hứng chiếc đinh nóng đỏ do
đồng
nghiệp
của anh tung cho, rồi đưa vào đóng xuống đúng vị trí trong khi
tham gia bảo dưỡng
cầu Long Biên năm 2015 - các công nghệ tân tiến vẫn
chưa hề chạm đến thế giới của họ.
Ảnh: dantri.com.vn
John Doe là một nông dân ở Nebraska (Mỹ). Ông trồng ngô. Ông đồng thời
cũng là một cư dân mạng. Công việc canh tác ngày nay phần lớn được tự
động hóa nên John có rất nhiều thời gian rảnh để chơi game online. Ông
gia nhập một mạng lưới người chơi trên toàn nước Mỹ. John chơi rất giỏi
những game nhập vai siêu anh hùng kiểu như Iron Man hay Spiderman, tham
gia vào những trận đánh trên các thiên hà xa xôi. Captain America là
vai ưa thích của ông. Giả thử Captain America có tham gia tranh cử ở Mỹ
thì hẳn là John đã bầu cho chàng ta một phiếu. Nhưng Captain America
không tranh cử, nên John quyết định bầu cho Donald Trump. Ông không hối
tiếc điều này bởi giờ đây ông có thể hằng ngày đọc những dòng tweet từ
Trump với nội dung đơn giản mà ông có thể hiểu, ví dụ: Obama thật ti tiện khi nghe trộm điện
thoại của tôi […] ông ta thật
xấu xa [hoặc bệnh hoạn]! John Doe thực sự vui thích lên mạng vì
những chuyện như vậy.
Người ta nói rằng các đường song song không bao giờ giao cắt, nhưng các
thế giới song song đôi lúc vẫn gặp nhau một cách hiếm hoi và ngắn ngủi,
chỉ đủ để trao nhau một cái bắt tay hay một nụ cười. Một thế giới của
người giàu và một thế giới của người nghèo. Gần đây, nhà kinh tế người
Pháp, Thomas Piketty, xuất bản một cuốn best-seller, Tư bản trong thế kỷ 21,
trong đó ông dùng toán học để chỉ ra khoảng cách giữa hai thế giới ngày
càng gia tăng sâu sắc. Nhưng chẳng cần đến những con số minh họa thì từ
lâu chúng ta đã biết điều này. Trong nửa sau thế kỷ 19, một triết gia
người Đức từng viết một cuốn sách về cùng chủ đề, đó cũng là một
best-seller. Ông nổi tiếng với lời kêu gọi công nhân trên toàn thế giới
đoàn kết lại. Các bạn chẳng có gì để
mất ngoài những xiềng xích, ông bảo họ. Tuy nhiên, những người
công nhân Pháp và công nhân Đức sống trong những thế giới song song,
mỗi bên tin rằng thế giới bên mình là tốt, bên kia là xấu. Vài thập kỷ
sau, họ ném bom vào nhau, giành giật nhau từng tấc đất chiến hào lầy
lội, và kết quả là gần hai mươi triệu người chết, một nửa là dân
thường, một nửa là quân nhân.
Trái ngược với thế giới của người nghèo, thế giới của người giàu không
hề chia cắt thành những không gian song song phân định bởi ranh giới
các quốc gia. Đó là thế giới của toàn cầu hóa, những tập đoàn đa quốc
gia. 54 người giàu nhất nắm trong tay 1,4 nghìn tỷ USD, bằng tổng của
cải của một nửa dân số thế giới, những người nghèo ở tầng lớp dưới.
Gần hai năm trước, cầu Long Biên được bảo dưỡng. Nhiều đinh ốc rỉ sét
được thay thế. Phải nói rằng những người công nhân thực hiện công việc
này là những nghệ sỹ xiếc; một đoạn phim chiếu trên internet 1 cho thấy họ khéo léo thế nào, một người
tung những chiếc đinh nóng đỏ, một người khác dùng phễu nhôm để hứng
lấy từ xa rồi đưa vào đóng xuống đúng vị trí. Tôi đã chiếu đoạn phim
này tại một tọa đàm bàn tròn về an toàn hạt nhân trong một hội thảo ở
Đà Nẵng mà tôi được mời. Những người công nhân trên cầu Long Biên và
những đại biểu họp tại Đà Nẵng sống trong những thế giới giao cắt nhau,
điểm giao cắt chính là khi các vị quan khách đại biểu được xem đoạn
phim nói trên; tuy nhiên thế giới của họ vẫn là những thế giới song
song, bởi đoạn phim mà tôi cho trình chiếu tại hội thảo không hề mang
lại thay đổi gì cho những người công nhân cũng như chẳng ảnh hưởng gì
tới các vị đại biểu.
Sống trong cùng thế giới của những người công nhân làm việc trên cầu
Long Biên là rất nhiều những người công nhân Việt Nam khác mà tôi được
thấy. Những người phụ nữ cắt cỏ trên dải phân cách đường Hoàng Quốc
Việt, ngay trước mặt viện nghiên cứu nơi tôi làm việc, ít năm trước họ
còn dùng kéo, nay họ cải tiến hơn: sử dụng liềm. Những phụ nữ đẩy những
chiếc xe rác đầy ứ qua các ngõ ngách, dùng hai thanh sắt gõ vào nhau để
báo hiệu cho cư dân về sự có mặt của mình. Và những người gác thanh
chắn đường tàu đoạn đi qua Điện Biên Phủ. Các công nghệ tân tiến vẫn
chưa hề chạm đến thế giới của họ, ngoại trừ việc mỗi người đều sở hữu
một chiếc điện thoại di động để tự chụp selfies hay chụp ảnh con cháu
mình và chia sẻ trên Facebook. Họ cũng là những cư dân mạng.
Gần đây, thế giới của người giàu bị xâm lấn bởi những phần tử lạ. Đó
không phải là người thực như bạn và tôi mà là những robot được lập
trình bởi những công ty đa quốc gia, như Siemens, Google hay Samsung.
Các chuyên gia nói về Dữ liệu lớn,
Điện toán đám mây, Internet của vạn vật, hay Cách mạng Công nghiệp lần
thứ tư, và họ viết tắt là IoT và Công nghiệp 4.0. Họ rất thích
nói tắt, nào là mạng 5G, in 3D, rồi CPS (viết tắt của Cyber-Physical
Systems). Họ vẽ ra một viễn cảnh tương lai theo kiểu tiểu thuyết Aldous
Huxley: robot tự học hỏi, máy móc tự tái định dạng, môi trường nhận
dạng thông minh, phần cứng kèm cảm ứng nối mạng, và toàn bộ Trái đất
biến thành một bộ não khổng lồ.
Với bạn và tôi, đây dường như là những khái niệm đến từ hành tinh khác;
nhưng may mắn là một số người hiểu được và lý giải chúng theo cách
chúng ta tiếp thu được; ví dụ khi ông Chủ tịch Hiệp hội Internet Việt
Nam trả lời phỏng vấn báo Hải quan 2
: bản chất của cuộc cách mạng công
nghiệp lần thứ tư là việc tạo ra các hệ thống ảo được thiết lập từ môi
trường thông tin, giúp kết nối và tương tác giữa con người, máy móc và
thế giới thực thông qua cả năm giác quan. Điển hình nhất cho sự liên
kết thực và ảo hiện nay là sự ra đời IoT (Internet of Things – Internet
kết nối vạn vật). Có thể lấy ví dụ về trò chơi Pokemon Go được phát
triển gần đây, thế giới trong game là thế giới ảo nhưng đã có sự tương
tác với con người, nếu được phát triển thành những mối quan hệ thông
minh hơn, có độ tương tác mạnh hơn như hiểu được cảm xúc con người… thì
sẽ càng tác động lớn đến đời sống xã hội.
Tôi không biết nhiều về Pokemon, ngoài từng nghe các cháu mình hồi bé
có nhắc đến tên nhân vật hoạt hình này, và tôi phải thừa nhận là mình
đã quá già để có thể hiểu vì sao nó có thể tác động mạnh mẽ tới đời
sống xã hội… Trong một bài phỏng vấn khác, chủ tịch
Express/Asia-Pacific giải đáp mối lo ngại của tôi rằng Công nghiệp 4.0
sẽ chỉ làm lợi cho những tập đoàn đa quốc gia : không hề nhé, bà ta khẳng định, Markor, công ty bán lẻ đồ nội thất Trung
Quốc, nhận ra họ có thể đổi mới chuỗi cung ứng của mình để nhận diện
các xu hướng trong hành vi người tiêu dùng. Công ty tạo ra một ứng dụng
trên điện thoại di động, dùng dữ liệu lớn để nhận biết các xu hướng
này, từ đó đưa ra những gợi ý phù hợp cho khách hàng về kiểu dáng sản
phẩm. Sử dụng các thiết bị di động, nhân viên bán hàng có thể cho khách
xem trước các bản demo sản phẩm và hình ảnh 3D của đồ nội thất được tùy
chỉnh theo ý khách. Khi việc mua bán thành công, sở thích của khách và
các chi tiết giao dịch được tự động lưu trữ và công ty dùng những thông
tin này để định hướng cho hoạt động kinh doanh tiếp theo. Bạn
nghe có tuyệt vời không? Chẳng phải tôi đã nói rồi sao, đúng kiểu
Aldous Huxley.
Hẳn là tôi cần bỏ nhiều công sức hơn để có thể hiểu đầy đủ về tất cả
những điều này. Tuy nhiên, [không quá khó để thấy rằng] xe tự lái sẽ
chẳng giúp ích gì cho người Hà Nội khi mỗi ngày đều đối diện với nạn
kẹt xe. Công nghiệp 4.0, dường như chỉ phục vụ lợi ích của người giàu.
Liệu những người thợ mỏ ở Trung Quốc (1.043 người chết vì tai nạn hầm
mỏ năm 2013, năm cuối cùng có số liệu thống kê về vấn nạn này) có quan
tâm đến Internet của vạn vật
hay Lưu trữ Dữ liệu Điện toán đám mây?
Công nghiệp 4.0 vẫn cần đến điện để chạy, trong đó điện than vẫn chiếm
phần lớn, nhưng các chuyên gia lại thích nói về năng lượng tái tạo bởi
nghe có vẻ hợp mốt và hợp tai công chúng.
Liệu một cô thợ may làm việc trong một xưởng may của Việt Nam có quan
tâm đến đóng góp của Công nghiệp 4.0 tới sự phát triển của “thời trang
ăn liền” (fast-fashion) ? Không, điều cô ta nên quan tâm là nguy cơ mất
việc: hàng triệu công nhân dệt may nên lo ngại về điều này. Theo một
báo cáo gần đây của Tổ chức Lao động Thế giới, công nhân trong hai ngành công nghiệp lớn
và đang tăng trưởng mạnh ở Việt Nam – dệt may và điện tử - đang nằm
trong diện rủi ro: 86% công nhân dệt may có thể bị thay thế bởi các dây
chuyền tự động hóa và robot trong các thập kỷ tới. Năng suất và ứng
dụng công nghệ ở Việt Nam hiện thấp hơn nhiều so với các nước Đông Nam
Á khác: ngành dệt may Việt Nam có năng suất chỉ bằng 20% của Thái Lan.
Sản xuất dệt may ở Việt Nam hiện chủ yếu dựa vào số lượng lao động hơn
là tay nghề kỹ thuật cao. Tổng số lao động Việt Nam dự kiến đạt 6triệu
vào 2025, đặt ra một thách thức lớn cho quốc gia, đòi hỏi hơn bảy triệu
việc làm mới được tạo ra hằng năm.
Vậy ai sẽ hưởng lợi từ Cách mạng Công nghiệp lần thứ tư? Gần đây tôi
đọc một bài báo thú vị bởi những người được coi là các nhà tư vấn chiến
lược ở Đức 3; họ đưa ra câu trả lời,
không phải dưới giác độ Việt Nam, mà của châu Âu. Về cơ bản, họ quan
ngại rằng các nước đang phát triển đã tăng gấp đôi thị phần thế giới
trong các ngành sản xuất chế tạo, khiến thị phần của châu Âu giảm từ
35% xuống còn 24%. Từ năm 1991 tới năm 2011, thị phần sản xuất chế tạo
trên thế giới của các nước đang phát triển tăng từ 21% lên 40%, trong
đó châu Á (không tính Nhật Bản) thị phần tăng từ 8% lên 31%. Xu hướng
thuê khoán từ những nước lao động giá rẻ khiến châu Âu lâm vào tình
trạng giải công nghiệp, kỹ năng lao động bị mai một, và buộc những nước
công nghiệp yếu phải dựng lên các rào cản để tự bảo vệ. Theo các tác
giả của bài báo, hiện nay chính là thời điểm châu Âu tận dụng cơ hội từ
Công nghiệp 4.0 để phản kích. Tuy nhiên, bài báo không thuyết phục được
độc giả rằng cơ hội phản kích này có nhiều triển vọng sẽ thành công.
Với Việt Nam thì sao? Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc gần đây yêu cầu các cơ
quan trung ương và địa phương phải có kế hoạch tận dụng tối đa những cơ
hội từ Cách mạng Công nghiệp 4.0. Cụ thể, các bộ, ngành sẽ cung cấp
dịch vụ công chất lượng cao hơn cho người dân và doanh nghiệp bằng cách
đơn giản hóa và hiện đại hóa các quy trình thủ tục hành chính. Bộ Thông
tin và Truyền thông phụ trách sự phát triển an toàn và vận hành hợp lý
mạng lưới di động 4G từ nay tới 2018. Bộ KH&CN thực hiện các chương
trình KH&CN quốc gia về toán, vật lý, và các ngành khoa học cơ bản
khác. Bộ GD&ĐT thúc đẩy giáo dục STEM ở các trường phổ thông. Bộ
Tài chính xây dựng cơ chế, chính sách thuế và tài chính nhằm khuyến
khích các công ty đầu tư cho công nghệ mới và R&D.
Đây là những điều thiết thực mà chúng ta có thể hiểu. Chúng phù hợp với
tình hình hiện nay của Việt Nam, với những lợi thế và nhược điểm của
đất nước cũng như bức tranh chung của thế giới xung quanh. Ít ra, chúng
ta không coi Công nghiệp 4.0 như một thách thức để tự bào chữa [cho sự
tụt hậu của mình], mà coi đó như một động lực cho đổi mới (mặc dù đổi
mới là yêu cầu tất yếu, dù có Công nghiệp 4.0 hay không). Chúng ta thừa
hiểu những nguy cơ cho đất nước nếu cứ kéo dài mãi tình trạng bị bóc
lột, là điểm cung cấp lao động giá rẻ cho các nước giàu. Chúng ta hiểu
rõ một trong những ưu tiên hàng đầu của quốc gia là chuẩn bị cho thế hệ
trẻ khả năng sẵn sàng đáp ứng những công việc của ngày mai, rằng giáo
dục và đào tạo là chìa khóa cho tương lai của Việt Nam.
Việt Nam có lợi thế gì? Nền kinh tế có tốc độ tăng trưởng nhanh, khoảng
6% trong năm ngoái; có đánh giá cho rằng Việt Nam có nền kinh tế tăng
trưởng nhanh thứ tám trên thế giới, tính từ nay tới năm 2050. Đội ngũ
lao động tăng trưởng mỗi năm trên một triệu người, trong khi tỷ lệ thất
nghiệp chỉ ở mức 2,5%. Giới trung lưu có tốc độ phát triển nhanh nhất ở
Đông Nam Á, đạt 33 triệu người vào năm 2020. Độ tuổi trung vị chỉ trên
29. Gần 70% dân số trong độ tuổi 15 tới 64. Một phần tư dân số dưới độ
tuổi 15. So với các nước có mức thu nhập tương đương, Việt Nam có mức
đổi mới sáng tạo cao hơn; so với các nước có trình độ phát triển kinh
tế tương đương, Việt Nam liên tục có thành tựu vượt trội.
Nhưng theo cách nhìn của các nhà đầu tư nước ngoài, lợi thế chủ yếu của
Việt Nam là ở đội ngũ lao động giá rẻ. Mức lương tối thiểu theo quy
định quốc gia là 110 USD/tháng, trong khi của Trung Quốc là 160 USD,
của Thái Lan là 230 USD. Rõ ràng Việt Nam không thể tự bằng lòng với
mức thu nhập thấp như vậy; chỉ nên coi đây như một bước phát triển quá
độ trên con đường tiến tới tương lai thịnh vượng hơn. Khi Việt Nam ngày
càng mở cửa đón đầu tư nước ngoài, dòng chảy FDI tăng một cách vững
chắc, đạt 24,4 tỷ USD trong năm 2016, tăng 9% so với năm trước đó; 78%
dòng vốn này là từ châu Á, trong đó riêng Hàn Quốc có 7 tỷ USD.
Trong nhiều năm, các nhà quan sát nền kinh tế Việt Nam đều có chung một
quan điểm. Một bài báo gần đây của Dung Phan đăng trên ASEAN Today 4 tổng kết khá đầy đủ quan điểm này, tôi
chỉ xin trích dẫn một vài luận điểm nổi bật nhất: Kể từ khi ngành công nghiệp chế tạo của
Trung Quốc suy giảm, Việt Nam trở thành điểm đến hấp dẫn với các nhà
đầu tư nước ngoài tìm kiếm thị trường nóng tiếp theo. Trong năm năm
qua, xuất khẩu của quốc gia này tăng hơn gấp đôi, lao động giá rẻ và hạ
tầng chi phí thấp thu hút FDI đổ vào ngành công nghiệp chế tạo. Tuy
nhiên, những thành tựu này mặc dù là dấu hiệu thành công đáng kể về
kinh tế, cũng đồng thời tiềm ẩn sâu trong đó nguy cơ mất cân bằng. Hãy
nhìn vào mối quan hệ giữa sự thiếu vắng đội ngũ nhân lực trình độ cao
và sự dư thừa nhân lực trình độ thấp, thường được gọi là “lao động giá
rẻ”, trong ngành chế tạo. Sự chú trọng vào tăng trưởng kinh tế có thể
che đậy tình trạng lao động trình độ thấp, với cách nhìn coi “lao động
giá rẻ” là “nguồn lực dồi dào thu hút đầu tư nước ngoài để thúc đẩy nền
kinh tế”. Năng suất và chất lượng lao động của Việt Nam thấp và tụt hậu
xa so với khu vực. Việt Nam nay đối diện với sự khan hiếm lao động
trình độ cao do giáo dục cấp ba không đáp ứng nhu cầu lao động của
doanh nghiệp. Lạm phát khiến lương tăng nhanh trong khi trình độ lao
động không tăng nhanh tương ứng, gây hạn chế tăng trưởng và tăng thêm
các thách thức cho các nhà hoạch định chính sách. Đất nước không thể cứ
mãi dựa vào mức lương thấp. Cạnh tranh dựa vào lương thấp là rất rủi
ro, chỉ nên được coi như giải pháp tạm thời trước mắt với một nước đang
phát triển như Việt Nam. Nếu Việt Nam tiếp tục dựa vào lao động giá rẻ
thì sẽ không có động lực đổi mới công nghệ để chuyển sang những kỹ
thuật tiên tiến hơn.
Chúng ta hãy đừng quá mơ mộng, hãy tạm quên đi những thế giới ảo song
song nơi Donald Trump giao thoa với Captain America, nơi Pokemon gây
bão trong đời sống xã hội, hay robot tư duy giống như người. Việc nối
mạng có ích lợi là cho phép chúng ta dễ dàng khám phá những thế giới
song song, những thế giới có thực trong đời sống, nơi những đứa trẻ
chết đói ở Hạ Sahara, những cậu bé Iraq kẹt dưới bom đạn ở Mosul, những
bé gái Nigeria bị Boko Haram bắt cóc. Có thể điều đó sẽ giúp chúng ta
tỉnh thức, điều mà thế giới đang rất cần. Bên cạnh đó, việc nối mạng
cũng giúp chúng ta khám phá về những thế giới hạnh phúc hơn, là cơ sở
cho hi vọng, điều mà thế giới cũng đang rất cần. Một ví dụ điển hình
chính là tiến trình ngoạn mục của Việt Nam trong cải thiện mặt bằng sức
khỏe của người dân, đạt mức tuổi thọ trung bình cao hơn đáng kể so với
những nước khác có mức GDP đầu người tương đương; và tỷ lệ tử vong ở
trẻ sơ sinh và tỷ lệ suy dinh dưỡng giảm tới ba lần trong vòng hai thập
kỷ qua. Những thông tin như vậy giúp chúng ta hiểu sâu hơn về thực tế
đất nước mình và xác định rõ đâu là mục tiêu ưu tiên cần tiếp tục phấn
đấu trên con đường phát triển tới đây. Mong rằng chúng cũng giúp chúng
ta nhận thức đúng hơn về tài sản vô giá, không thể thay thế của đất
nước, đó chính là thế hệ trẻ; rằng chúng ta có trách nhiệm đào tạo các
em một cách bài bản, cung cấp những hỗ trợ và khuyến khích cần thiết để
các em có thể đối diện với nhiều khó khăn đang chờ đón phía trước.
1 https://www.youtube.com/watch?v=wHO1B2jKBps
3 Roland Berger Strategy Consultants, www. Think-act.com, 2014.
4 https://www.aseantoday.com/2016/ 06/vietnam-time-to-stop-the-delusion-of-cheap-labour/
Các thao tác trên Tài liệu