TÂY NGUYÊN
Tây Nguyên
Nguyên Ngọc
Hẳn tôi phải kể chuyện Tây Nguyên cách riêng mình, với tôi nó chiếm hơn nửa cuộc đời, cho đến tận hôm nay. Nhưng muốn vậy, chắc trước hết phải nói chung về Tây Nguyên đã, dù chỉ trên một số nét đại thể. Hình như những người biết rõ những đại thể nhưng lại cốt yếu như vậy cũng không nhiều, kể cả những người có trách nhiệm trực tiếp với vùng đất và người này, ở tất cả các cấp, từ cao nhất cho đến thôn xóm. Vả chăng ngay cả chính tôi cũng vậy, mãi sau này tôi mới hiểu rõ hơn những đại thể cốt yếu ấy qua tìm đọc thêm các nghiên cứu sâu khác nhau của nhiều nhà Tây Nguyên học trong và ngoài nước, hơi lạ chủ yếu là của các tác giả ngoài nước, không có những hiểu biết do người đi trước đem lại và soi sáng đó thì quả cứ như thiếu một cái nền để tự mình cắt nghĩa cho mình những trải nghiệm từng thực tế lăn lộn ở Tây Nguyên nhiều năm dài. Cũng cần nói rõ những nghiên cứu đó chủ yếu là của người Pháp, trong gần một trăm năm người Pháp đã để lại cho chúng ta những hiểu biết rất cơ bản, sâu sắc, toàn diện, nghiêm túc về Tây Nguyên. Tôi đã bỏ ra một số thời gian và công sức đáng kể để chuyển ngữ và tham gia tổ chức chuyển ngữ sang tiếng Việt một số công trình quan trọng trong kho vốn quý đó, và nghĩ chắc không chỉ có ích cho mình.
Cho nên sau đây sẽ là chuyện sau lại nói lên trước, hoặc một lối kể
chuyện không bình thường, chuyện trước chuyện sau sẽ cứ xen kẽ và lẫn
lộn, tôi rất xin lỗi.
Tôi có một anh bạn ở Hà Nội, cấp tướng hẳn hoi, phụ trách cơ quan có
thể gọi là ban, phòng hay cục, vụ quân sử, tức chuyên nghiên cứu và
viết về lịch sử quân đội ta. Có lần anh hỏi tôi : Này nhé, suốt thời
kháng chiến chống Pháp 9 năm, ở trong cái Liên khu 5 của các cậu ấy,
các cậu làm gì ? Có đánh đá gì không ? Có trận nào đáng kể ? Hay cũng
chỉ lẹt xẹt tồn tại gọi là… Tất nhiên tôi có tự ái, nhưng ngạc nhiên
nhiều hơn. Tôi hỏi lại anh : Là nhà nghiên cứu tinh thông, hẳn anh phải
biết cái nơi gọi là Tây Nguyên. Theo anh, không có nó, cái Tây Nguyên
ấy, thì có đánh Mỹ được không ? Có vào được Sài Gòn 30 tháng Tư 75 ? Mà
Tây Nguyên thì là của Liên khu 5, do Liên khu 5 chịu trách nhiệm với cả
nước. Cái Tây Nguyên ấy, nó ở đâu ra vậy ? Ở trên trời rớt xuống cho ta
? Hay có ai đó bỗng dưng tốt bụng một hôm đẹp trời đem cho không mình ?
Ở Liên khu 5 của chúng tôi thời 9 năm chống Pháp quả không đánh nhau ở
đồng bằng nhiều, vì ở đồng bằng ven biển ấy ta giữ được một vùng tự do,
cũng suốt 9 năm, trải dài qua những gần 4 tỉnh, nên ở đồng bằng tự do
thì không có Tây để mà đánh, chỉ đánh một ít ở hai đầu thuộc những nơi
bị chiếm. Còn thì cuộc kháng chiến 9 năm ở Liên khu 5 thực tế và thực
chất là một cuộc giành giật, từng chút một, dai dẳng, khó nhọc, phức
tạp, khốc liệt nữa, tuy không ồn ào, giữa ta và Pháp chính cái vùng đất
và người đặc biệt ấy, Tây Nguyên. Tôi nói giành giật, rồi sẽ còn nói
giành giật và chinh phục nữa kia, bởi từ đầu nó còn chưa phải là của
ta, không phải cứ đương nhiên là của ta tự những bao giờ, rắc rối vậy
đấy. Trong chừng mực nào đó, có thể nói ở cuộc chiến tranh thứ nhất,
chống Pháp, Liên khu 5 đã nhọc nhằn, thường là rị mọ nữa, chuẩn bị cho
cuộc thứ hai, chống Mỹ, và điều đó rõ nhất là ở Tây Nguyên. Cho nên để
mà hiểu và tiếp tục câu chuyện, ắt phải nói lại ít nhất một số nét
chung về nó, Tây Nguyên.
Còn một điều nữa, rất đáng chú ý : Tây Nguyên có một thời kỳ chuyển
động và phát triển sâu nhất – để có thể thành cao trào trong chống Mỹ
–, ấy là thời khó khăn nhất của cách mạng miền Nam, từ 1954 đến khoảng
1959-60. Tôi sẽ xin trở lại với chuyện này khi có dịp.
Vị trí của Tây Nguyên, chắc nay ai cũng biết rồi. Nhưng hãy thử bắt đầu
: Người Tây Nguyên là ai vậy? Họ từ đâu đến trên cao nguyên này ? Đến
như thế nào và từ bao giờ ? Ông Núp có lần nói với tôi năm đời trước tổ
tiên ông còn ở ven biển. Tôi hiểu ông nói năm đời là ý muốn nói số
nhiều, là nói quá khứ xa, có thể năm chục, hay hàng trăm. Thật ra, theo
chỗ tôi hiểu, chưa ai biết chắc là tự bao giờ. Nhưng có điều này thì
thật đáng chú ý: người Tây Nguyên ngày nay sống trên núi cao, vậy mà
trong các truyện cổ, các truyền thuyết hay thần thoại của họ mà họ gọi
là akhan, lại rất nhiều ký ức đậm đà về biển. Akhan trong tiếng Gia Rai
có nghĩa là kể, đặc biệt là những buổi cà kê kể chuyện xưa bên bếp lửa
nhà sàn về đêm, đêm này qua đêm khác, say mê và miên man, nhất là khi
các dân tộc này còn chưa có chữ viết. Từ miệng đến tai, lại từ tai đến
miệng, cứ thế truyền nối, kể tức là cái nhớ được ghi khắc và chuyển
lại, từ thế hệ này sang thế hệ khác, cái nhớ chỉ âm ỉ thôi, ở trong
tiềm thức và được huyền thoại hóa nhưng hẳn nhất thiết phản ảnh những
điều từng có thực nào đó. Cho nên kể cũng chính là tồn tại, kết nối sự
tồn tại của giống nòi, truyền kiếp.
Ký ức biển không chỉ được lưu giữ trong akhan, một cách vật chất và
thẩm mỹ nó còn hiển hiện trong kiến trúc các ngôi nhà : nhìn kỹ đôi
chút mà xem, vách nhà Tây Nguyên không thẳng đứng như ở nhà dưới xuôi,
mà thường hạ thu thượng khoách, bên dưới túm lại bên trên nở ra, tựa
các be thuyền, khiến ngắm một làng buổi sáng xa xa cảm giác một đoàn
thuyền lững thững bơi trong sương sớm, với mái nhà rông nữa là cánh
buồm dựng cao lộng gió. Lại còn trong một số ngôn ngữ Tây Nguyên tên
gọi các bộ phận trong một ngôi nhà trùng với tên gọi với các bộ phận
trên thuyền… Vậy chắc quá khứ biển của họ là có thực, có thể xa lắm,
nhưng thật sâu.
Tôi vừa nhắc đến người Gia Rai, tộc người đông nhất, chiếm cao nguyên
Ayun Par và cao nguyên Pleiku rộng rãi, phì nhiêu và quan trọng nhất
vắt phủ qua gần hết phần trung tâm Tây Nguyên. Trong lịch sử lâu dài,
đoạn cao nguyên trung tâm này và chủ nhân của nó, người Gia Rai, từng
là trung gian thiết yếu về nhiều mặt nối hai vương quốc lớn, Champa ở
phía Đông với Khmer phía Tây. Tiếng nói của người Gia Rai gần giống hệt
tiếng Chăm, nói hoàn toàn có thể hiểu nhau. Thậm chí theo nhiều nhà
khoa học, người Gia Rai chính là người Chăm lên Tây Nguyên. Họ còn chỉ
ra các con đường đi lên đó, tất nhiên thuở ấy là những lối mòn len lỏi
rất khó nhọc: con đường nay gọi là quốc lộ 19, từ Quy Nhơn lên An Khê,
rồi lên Pleiku, nối sang tận Stung Treng bên Campuchia; và con đường
trước đây gọi là quốc lộ 7 nay đã đổi tên thành quốc lộ 25, nơi tướng
Phạm Văn Phú từng dẫn quân tháo chạy khỏi Pleiku về Tuy Hòa và bị đánh
tan tác hồi 1975. Đều là độc đạo hiểm trở bởi sườn phía Đông của Tây
Nguyên đổ xuống vùng ven biển Nam Trung Bộ đều dốc đứng, nhiều nơi thăm
thẳm. Điều khiến ta quan tâm là tại sao một bộ phận người Chăm lại đột
ngột rời bỏ cộng đồng cũ của họ ở đồng bằng ven biển, hăm hở leo những
dốc đứng độc đạo hiểm nguy đến thế để lên Tây Nguyên và trở thành người
Gia Rai ? Theo tôi đấy là một câu hỏi quan trọng, không chỉ để biết một
quá trình lịch sử lạ và thú vị, còn để hiểu một điều gì đó rất có thể
thuộc về bản chất, hay tận bản thể như các nhà triết học vẫn thích gọi,
của những con người ngày nay ta gọi là người Tây Nguyên.
Nên biết Tây Nguyên là một phần của một cao nguyên rộng lớn hơn nhiều,
còn nối sang Nam Lào, Bắc Campuchia, lại tiếp với cao nguyên Cò Rạt của
Thái Lan, cho đến tận những vùng cao của người Karen ở Myanmar. Đi xa
nữa thì sẽ tới Pakistan, rồi Afghanistan. Giáo sư James C. Scott ở Đại
học Yale Hoa Kỳ đã chú ý đến mảng cao nguyên trải dài qua nhiều quốc
gia Đông Nam Á này. Câu hỏi nghiên cứu của ông như sau : Tại sao có các
dân tộc đã rời bỏ đồng bằng tháo chạy lên cao nguyên ấy và, theo ông,
trở thành những cư dân vùng cao thường bị gọi nhầm là ‘các bộ lạc miền
núi’ ? (“… habitants des hauteurs,
souvent et, à mon avis, faussement appelés ‘tribus montagnardes’, hill
tribes”).
Tức ông không đương nhiên gọi ngay họ là ‘bộ lạc miền núi’, ông cho
thực ra họ vốn là người đồng bằng thôi (chú ý : quá giống với nhận định
người Gia Rai kỳ thực vốn là người Chăm ở vùng đồng bằng ven biển Nam
Trung Bộ). Vì sao tới một lúc nào đó trong lịch sử hẳn rất lâu đời (“những năm đời!”
như ông Núp từng tâm sự với tôi) họ đã tách ra và bỏ chạy lên núi ? Đây
là câu trả lời của James Scott. Một trong những tác phẩm chính của ông
có tên là Nghệ
thuật để không bị cai trị: một lịch sử vô chính phủ của vùng cao nguyên
Đông Nam Á (The Art of Not
Being Governed : An Anarchist History of Upland Southeast Asia,
Yale University Press, 2009). Bị cai trị bởi ai ? James Scott chỉ rõ :
bởi Nhà nước. Thời điểm họ tách khỏi cộng đồng cũ của mình ở đồng bằng,
bỏ chạy lên núi, là khi trong cộng đồng đó, do những điều kiện nhất
định, xuất hiện Nhà nước. Khi cộng đồng Chăm vốn từ các nam đảo Thái
Bình hay Ấn Độ Dương đến cư trú trên vùng duyên hải Nam Trung Bộ, do
tiếp nhận văn hóa Ấn Độ mà trở thành Vương quốc với Nhà nước Champa,
thì những người Chăm không muốn chịu sự cai trị của Nhà nước ấy, hay
của bất cứ Nhà nước nào khác, đã tách ra, tìm đường chạy lên cao nguyên
Pleiku và cao nguyên Ayun Par, nay là tỉnh Gia Lai, để thành người Gia
Rai. Một cuộc ly khai và di cư lịch sử quyết liệt, dứt khoát. Vì sao và
để làm gì ? Để tiếp tục được sống tự do. James Scott có một bài viết
ngắn còn rõ hơn, tên là Núi và Tự do, lại còn tiếp thêm kiểu phụ đề hay
Vì sao các nền văn minh không biết leo núi? (Mountains and Freedom,
or Why Civilizations Can’t Climb Mountains,
Critique internationale, volume 11, issue 2, 2001, tr. 85-104). Ông gọi
những nơi đã có Nhà nước để bắt người ta chịu cai trị là các nền văn
minh. Trong bài viết ấy còn có một nhận xét thú vị : tiếng Sanskrit, là
ngôn ngữ văn minh của các Nhà nước đó, không bao giờ leo cao được quá
500 mét ! Văn minh thì biết rất lắm điều, chỉ không biết leo núi, hay
chưa ! Người Tây Nguyên là những người không muốn chấp nhận thứ văn
minh đó, họ cũng từ chối ngôn ngữ Sanskrit uyên thâm truyền bá tri thức
cùng lúc truyền nhiễm và tổ chức ách cai trị nô lệ con người. Nhà sử
học lớn người Nga Nikolai Karamzin viết : “Các
dân tộc man di thích sống độc lập, các dân tộc khôn ngoan thì thích
trật tự, và không thể có trật tự mà không có quyền lực chuyên chế”
[1]. Người Tây Nguyên là những người “man di” của Karamzin kháng cự
chuyên chế và say mê độc lập. Họ thà cứ “man di” để giữ lấy tự do.
Vậy đó, sự tạo nên con người Tây Nguyên. Và những ai biết đến cùng họ,
tận tình gắn bó, thì cũng được nhiễm hưởng từ họ khát khao cùng ý chí
cháy bỏng ấy : Tự do !
*
Nếu quả thật người Tây Nguyên vốn là cư dân đồng bằng, như James Scott
ước đoán và ta suy ra, do muốn tránh các Nhà nước chuyên chế áp đặt cai
trị đã tìm đường thoát lên Tây Nguyên, thì khi lên đến miền đất hứa này
rồi, họ đã tổ chức cuộc sống xã hội của mình ra sao ? Trong tác phẩm Rú Mọi [2], tổng
kết cuộc khảo sát khá toàn diện vùng Tây Nguyên từ năm 1909 đến năm
1911, nhà thám hiểm Henri Maître viết : “Tây Nguyên gồm các làng độc lập và rời rạc”.
Nên nhớ Henri Maître là người đầu tiên biết qua nghiên cứu ngôn ngữ mà
phân loại khá chính xác các tộc người (ethnie)
ở Tây Nguyên. Vậy mà khi tìm hiểu cơ cấu tổ chức của xã hội này ông
không hề mô tả các tộc người ấy với tư cách là những thành tố tạo nên
xã hội. Ông chỉ nói đến làng, còn chỉ rõ đó là những làng độc lập và
rời rạc. Tức ông đặc biệt chú ý đến vai trò (độc lập và rời rạc) của
các làng, từng làng, coi làng rời rạc là tế bào cơ bản ghép hờ hững
thành xã hội.
Gần 30 năm sau, năm 1937, bằng quan sát chăm chú và nghiên cứu sâu tại
chỗ, hai nhà dân tộc học đầu tiên của Việt Nam là Nguyễn Kinh Chi và
Nguyễn Đổng Chi, trong tác phẩm Mọi Kontum [3],
mô tả chính xác và sinh động hơn tế bào xã hội độc đáo này, chỉ có ở
Tây Nguyên. Hai ông viết : “Dầu to
hay nhỏ, mỗi làng Ba Na là một tiểu quốc gia hoàn toàn độc lập, không
phục tùng dưới quyền thống trị nào khác”.
Với người Ba Na (và Tây Nguyên nói chung) làng là đơn vị xã hội cao
nhất, bên trên nó không còn có gì khác. (Xin nói thêm: trong tất cả các
ngôn ngữ Tây Nguyên, không thể tìm thấy có từ chỉ đơn vị cao hơn làng.
[4]) Bên trên đã vậy, còn bên dưới làng thì sao ? Rất sinh động và sâu
sắc, hai ông kể tiếp : “Bất luận là
bà con hay người dưng, người Ba Na đã ở chung một làng thì họ đối đãi
với nhau thân mật lắm. Lúc vui mừng, khi hoạn nạn đều cùng nhau san sẻ.
Lại có một lối tình cảm liên lạc dân làng với nhau một cách huyền bí.
Ngày nay còn thấy một đôi dấu vết. Ví dụ như trong làng có một đôi trai
gái chưa thành vợ thành chồng mà ăn nằm với nhau thời cả làng đều bị lây
jơlâm jơlu (ô
uế về tinh thần). Tại sao vậy ? Là vì người Ba Na coi xã hội mình như
thân thể người ta. Mỗi cá nhân là một phần tử của đoàn thể cũng như ngũ
quan tứ chi, v.v. là phần tử của thân người. Nếu một phần tử phạm điều
không tốt thời không khác gì đoàn thể phạm vào điều ấy và các phần tử
khác phải chịu lây ảnh hưởng xấu. Cũng bởi một lẽ đó mà một người ở
đoàn thể này làm hại một người ở đoàn thể kia thời họ coi như cả đoàn
thể trước làm hại đoàn thể sau. Cái thù riêng của mỗi người trở thành
cái thù chung cả bọn và họ có thể rửa thù vào một phần tử nào bên
nghịch cũng được không cần đợi người có lỗi…”. Bên dưới làng
cũng không có gì. Không có cá nhân (và do đó, hộ cá thể), cá nhân chưa
xuất hiện để trở thành đơn vị xã hội như ở vùng Kinh. Kết hợp hai nhận
xét đều đặc sắc của hai ông, ta hiểu điều các ông gọi là “đoàn thể” hay “xã hội”
hoàn toàn không trừu tượng, đó chính là Làng. Cá nhân tự đồng nhất, tự
hòa mình đến cùng, hoàn toàn chìm đi trong đơn vị xã hội quan trọng
nhất, cao nhất và duy nhất, là Làng. Cho đến một cái tên riêng của từng
con người cũng không thật rõ ràng, nó bị làng nuốt đi. Khi lần đầu tiên
tôi hỏi Núp “Anh tên là gì?”,
bằng phản xạ tự nhiên anh trả lời: “Tôi
là người làng S’tơr [5]”. Gạn hỏi thêm nữa nhiều lần, anh mới
nói : “Tôi là Núp ở làng S’tơr”.
Vẫn không quên được làng.
Ở Tây Nguyên, nặng nề, nhục nhã và đau đớn nhất là chịu hình phạt bị đuổi ra khỏi làng. Làng, tức cơ thể đơn nhất mà mỗi con người là ngũ quan tứ chi của nó, đã quyết loại bỏ con người ấy. Không làng nào khác còn nhận anh. Anh hoàn toàn đơn độc, thậm chí mất luôn cả tư cách cùng tính người. Trường hợp ấy thường người ta chết mòn trong rừng, hay tự sát. [6]
Đến đây ta gặp một câu hỏi quan trọng: Vậy tộc người (ethnie) hay bộ lạc (tribu)
thì sao, so trong quan hệ với làng ? Tây Nguyên có nhiều tộc người khác
nhau, và đương nhiên mỗi người Ba Na, Gia Rai hay Ê Đê… biết mình là
người Ba Na, Gia Rai, Ê Đê… nhưng từ trong ý thức được bộc lộ qua ứng
xử hằng ngày, mỗi con người ấy gắn chặt với làng cụ thể của mình rõ
ràng hơn là với tộc người. Ta thường nói người Tây Nguyên có tính cộng
đồng rất cao, cần nói chính xác cộng đồng đó là cộng đồng làng.
Ngày xưa giữa các làng ở Tây Nguyên thường xảy ra đánh nhau, nhiều
người gọi đấy là “chiến tranh bộ lạc”. Theo tôi cách gọi ấy không đúng.
Trong thực tế không hề là các làng thuộc tộc người (hay bộ lạc) này kéo
nhau đi đánh các làng thuộc tộc người khác. Các làng đánh nhau không
phân biệt tộc người, mục đích là để bắt tù binh, mà người ta gọi là “nô
lệ”, hoặc bán sang Lào hay Miên, hoặc nuôi trong nhà làm nhân công lao
động. Cũng chính James Scott giải thích động cơ của kiểu chiến tranh
này : theo ông ở trên này thừa đất mà thiếu lao động, khủng hoảng thiếu
lao động để làm ra cái ăn trên đất rừng vốn dư thừa là bức xúc hàng đầu
của các làng cao nguyên, họ đánh nhau để cướp trai tráng lao động về
cho làng mình. Tù binh bắt về gọi là “nô lệ” nhưng kỳ thực được các gia
đình trong làng coi như con cái trong nhà, được đối đãi bình đẳng và
thương yêu, chỉ phải tham gia lao động sản xuất như người làng và không
được bỏ trốn. Những năm trước đây, đi qua các làng Tây Nguyên, thỉnh
thoảng có thể gặp và nhận ra đôi ba người Kinh là “con nuôi” trong các
gia đình người Thượng, họ vốn bị bắt từ khi còn rất nhỏ trong các cuộc
tập kích của người Tây Nguyên xuống các làng Việt ở ven núi, nay đã
thành người lao động Tây Nguyên thuần thục, nếu được hỏi tên thì cũng
như Núp sẽ nói trước tiên đến làng hiện nay của mình…
Ý thức về làng sâu đậm hơn ý thức về tộc người là đặc điểm nổi bật của
Tây Nguyên so với các vùng dân tộc khác trong nước ta (như Tây Bắc,
Việt Bắc hay Tây Nam Bộ, nơi có những cộng đồng dân tộc thiểu số đông
đúc hơn nhiều, lại là những cộng đồng liên quốc gia, cư trú trên nhiều
quốc gia liền nhau). Đặc điểm này đưa đến một hệ quả quan trọng : ở Tây
Nguyên xu hướng tự trị (của các tộc người thiểu số) không hề là một yêu
cầu nội sinh, bắt nguồn từ ngay trong cơ cấu xã hội. Hẳn đây là điều
rất nên chú ý. Và hẳn ta còn phải trở lại với chuyện quan trọng này.
Bởi có thể thấy ngay rằng vấn đề ở đây còn có chỗ tinh tế, do như đã
nói, mỗi người Ba Na, Gia Rai hay Ê Đê… vẫn biết mình là Ba Na, Gia
Rai, Ê Đê…, nghĩa là dẫu sao chuyện tộc người cứ là có thật, chỉ chìm
đi sau ý thức về làng do cách tổ chức xã hội thực tế lâu dài và làng ở
đây vốn dựa trên những nền tảng rất sâu sắc (mà tôi sẽ cố gắng nói rõ
hơn sau đây), chứ không phải không có hay đã mất hẳn, sẽ có thể thức
dậy trong những điều kiện nhất định. Jacques Dournes, người đã sống mê
đắm ở vùng Gia Rai suốt 15 năm, có lần kể : một người Gia Rai lang
thang đâu đó xa nhà, xa làng, đêm đến chỉ cần bất chợt gặp được một nhà
Gia Rai nào đó trên đường, thì có yên tâm thoải mái dừng nghỉ lại ở đấy
như ở nhà mình, làng mình. Nhận xét này của Dournes thoạt nghe như chỉ
thoáng qua, nhưng nghĩ kỹ rất đáng chú ý : chính khi làng bị vắng đi,
dù chỉ tạm thời, thì ý thức về tộc người có thể thức dậy, con người ấy
trong bơ vơ, lại tìm về tộc người của họ…
Vì sao yếu tố làng ở Tây Nguyên lại có thể đậm, mạnh đến thế, khiến vai
trò tộc người thường chìm lắng ? Xin nói tôi bắt đầu biết điều này, lạ
vậy, lại là giữa thời chiến tranh chống Mỹ, và về sau, khi có những
diễn biến phức tạp hơn ở Tây Nguyên mới nhớ lại và ngày càng hiểu rành
rẽ hơn. Trong chiến tranh chống Mỹ, sống và chiến đấu ở Tây Nguyên
chúng tôi được hậu phương miền Bắc tiếp tế đầy đủ vũ khí, còn lương
thực thì chủ yếu phải tự mình làm rẫy để có cái ăn mà tồn tại và đánh
giặc. Muốn làm rẫy ở một vạt rừng nào đó, việc đầu tiên chúng tôi nhất
thiết phải làm là đi tìm xin phép ông Già làng ở đúng cái làng có vạt
rừng nọ, được ông gật đầu rồi thì mới dám ra tay hạ rựa. Tuy nhiên sang
năm sau, muốn chuyển sang làm rẫy ở chỗ khác, dù chỉ cần cách rẫy cũ
một đoạn suối nhỏ, một ngọn đồi thấp hay một tảng đá, một gốc cây đánh
dấu…, chúng tôi lại phải đi tìm cho được một ông Già làng khác, ở một
cái làng khác, nơi có khu rừng mới này để xin phép, chứ không phải ông
Già làng năm ngoái. Phép tắc nghiêm nhặt phải biết và tuân thủ để sống
được ở rừng là vậy. Năm này qua năm khác (trong chống Mỹ tôi ở chiến
trường miền Nam 13 năm), 13 năm ấy dạy tôi hiểu ra rằng núi rừng Tây
Nguyên mênh mông thế nhưng ở trên ấy không có tấc đất rừng nào (ở Tây
Nguyên đất cũng tức là rừng) là vô chủ. Mỗi tấc đất rừng Tây Nguyên đều
có chủ cụ thể, và người chủ đó là làng, từng làng, xác lập nên điều
được các nhà dân tộc học gọi là chế độ Quyền sở hữu tập thể của cộng
đồng làng đối với đất và rừng. Đối với người Tây Nguyên đây là quyền sở
hữu thiêng liêng, được Thần linh (Yang)
trao cho từng làng trong ranh giới chặt chẽ, được truyền nối từ tổ tiên
ngàn đời, là bất khả xâm phạm, đất rừng ấy tuyệt đối không được chuyển
nhượng ra khỏi làng, và luôn phải gìn giữ trong sạch tránh mọi tội lỗi
của con người gây ô uế jơlâm jơlu. (Ở Tây Nguyên tội lỗi của con người
được định nghĩa đích xác như sau : kẻ có tội là kẻ làm ô uế đất làng
bằng hành vi trái đạo đức của mình). Quyền sở hữu này do Hội đồng Già
làng quản lý theo luật tục, tức các phong tục tập quán được cộng đồng
làng nhất trí và tuân theo như luật pháp. (Đúng ra luật tục còn toàn
diện và nghiêm minh hơn cả luật pháp, nó bao gộp toàn bộ thái độ và
hành vi đạo đức của con người trước Tự nhiên và Xã hội.)
Quyền sở hữu tập thể của cộng đồng làng đối với đất rừng tạo nên cái
chân đế kinh tế, vật chất của làng. Có và còn chân đế đó thì mới có và
còn làng, cùng sức mạnh huyền thoại của làng Tây Nguyên, như đã thể
hiện đặc biệt trong chiến tranh chống Mỹ. Là cửa ngõ đầu tiên của toàn
bộ chiến trường miền Nam, trong chiến tranh chống Mỹ Tây Nguyên đã bị
đánh phá cực kỳ khốc liệt. Nhiều làng bị quét sạch trên mặt đất, có lúc
phiêu dạt đi xa hàng chục hàng trăm cây số. Tôi có biết một làng Cơ Tu
như vậy ở Tây Quảng Nam, bị đánh dạt lên tận giữa tỉnh Gia Lai. Họ vừa
đi vừa đánh giặc, tự biến thành một đội du kích lưu động lạ lùng, cõng
theo một ông già, linh hồn của làng… Cần nói rằng trong chiến tranh
chống Mỹ ở Tây Nguyên, các binh đoàn chủ lực hùng mạnh của chúng ta đã
cơ động tuyệt vời trên một cái nền chiến tranh du kích vô danh mà hiệu
quả như vậy… Tất nhiên hết chiến tranh đám du kích lang thang đánh Mỹ
nọ lại tìm trở về với quê cũ. Thì đất rừng của họ đã không còn. Cùng
với đất đai cả nước, nó đã được quốc hữu hóa cả rồi. Quyền sở hữu tưởng
là vĩnh cửu của họ nay gọi là quyền sử dụng. Rồi tới năm 1991, Nhà nước
giao đất giao rừng, mỗi hộ cá thể (mà kỳ thực ở chỗ họ chưa có) lại
được giao một miếng đất cư trú và một miếng rẫy coi là xong, giống hệt
hộ cá thể dưới xuôi của người Kinh. Hồi bấy giờ nhận thấy, ít nhất do
từ phương thức canh tác, ở miền núi nên khác đồng bằng, Viện Dân tộc
học và một số nhà dân tộc học có kiến nghị ở trên này xin đừng giao đất
cho hộ (cá thể) mà giao cho làng, để Hội đồng Già làng quản lý… nhưng
rồi chẳng ai nghe. Chỉ có độc một miếng rẫy, không còn đất rừng để luân
khoảnh [7], độc một miếng thì làm vài ba năm sẽ bạc màu, người Kinh bấy
giờ di cư lên đông và ở ngay cạnh, lại khôn ngoan hơn, bèn hỏi mua rẻ,
rẻ cũng bán thôi vì rẫy đã bạc màu chẳng còn giá trị gì, có khi chỉ cần
một bữa rượu có thể cho luôn. Người Kinh bèn thuê chính người chủ cũ
trồng cà phê hay các loại cây công nghiệp. Cứ thế đất rừng từ tay người
dân tộc tại chỗ lặng lẽ chuyển hết sang tay người Kinh. Mất đất mất
rẫy, người dân tộc tại chỗ ngày càng lùi vào rừng sâu, thực sự trở
thành du canh du cư mặc dầu trước đó họ không hề du canh du cư như vẫn
bị vu khống [8], nay lại mang tiếng phá rừng – mà đúng ra bây giờ thì
họ buộc phải phá rừng thật, để kiếm miếng ăn cùng cực.
Không còn cái chân đế sở hữu tập thể đối với đất rừng, làng Tây Nguyên
thành treo lơ lửng giữa không trung, tất sụp đổ. Và tất cả sụp đổ theo,
trước hết là văn hóa, tức con người. Nay chỉ cần buổi sáng tới gốc me
đầu làng Plei Tơ Nghia ở ngoại ô thành phố Kontum để có thể nhìn thấy
một hình ảnh trai tráng Tây Nguyên bây giờ : họ ngồi đó, thường khoảng
chục người, nhóm thành một cái chợ lao động giống hệt chợ lao động ở
Giảng Võ Hà Nội thuở nào, chờ các chủ người Kinh trong thành phố đến
thuê làm việc vặt. Từng là những trai tráng vạm vỡ và đầy tự tin trước
rừng núi của mình mà họ còn là chủ nhân đích thực, nay họ bỗng trở nên
lúng túng và thụ động, xơ xác và ngơ ngác vì mất hết đất hết rừng.
Hãy nói thêm một ít nữa về rừng. Thực tế ở Tây Nguyên từ sau 1975 đã
chứng minh hùng hồn trong tất cả các chủ sở hữu chỉ duy nhất có làng
mới giữ được rừng. Bị tước đi khỏi quyền sở hữu của các làng, liên tiếp
được giao suốt 10 năm đầu cho các binh đoàn quân đội 331, 332, 333,
thất bại nặng ; bèn giao tiếp 10 năm sau đó cho những tổ chức lần đầu
tiên được lập ra gọi là các Liên hiệp Lâm Nông Công nghiệp bao trùm từ
tỉnh này qua tỉnh nọ, càng thất bại mất rừng ; lại quay về giao cho các
Lâm trường, Nông trường thuộc tỉnh hay huyện…, cho tới nay rừng tự
nhiên ở Tây Nguyên cơ bản đã bị quét sạch.
Cần nói rõ : rừng tự nhiên. Rừng tự nhiên thì luôn đa tạp. Tác dụng đầu
tiên và quan trọng nhất của rừng tự nhiên trên một cao nguyên được coi
là nóc nhà của Đông Dương như Tây Nguyên là để giữ nước. Chỉ có rừng tự
nhiên mới thật sự giữ được nước. Theo chỗ tôi hiểu cơ chế giữ nước của
rừng là như sau : cần phân biệt nước mặt với nước ngầm. Tàn phá là nước
mặt, khi không có rừng để hạn chế nó (hay đúng hơn, để “chế biến” nó ra
thành thứ khác). Chính nước mặt mới tạo ra lũ. Các nhà khoa học cho
chúng ta biết ở Tây Nguyên mỗi năm nước mặt do mưa tuôn xuống cuốn đi
mất 350 tấn đất màu trên mỗi ha rẫy dốc [9]. Nước mặt quét trên mặt đất
tạo thành lũ, cuốn trôi mọi thứ trên đường đi của nó, gây sạt lở ở mọi
nơi có độ dốc. Chức năng hàng đầu của rừng là để hạn chế nước mặt, cây
rừng làm công việc kỳ diệu và chỉ có nó làm được, nó tỉ mỉ chắt chiu
chia nhỏ nước mưa của trời ra, qua bộ rễ sum suê của nó chuyển phần lớn
nước mặt lắng sâu xuống lòng đất thành nước ngầm, để chuyển đi âm thầm
trong lòng đất, đưa nước từ tốn và an toàn từ vùng cao về hạ lưu. Ở quê
tôi, nước ngầm từ Tây Nguyên chuyển về, âm thầm mà bất tận, mát rợi và
ngọt lịm, được gọi là nước mội. Nền nông nghiệp đồng bằng về cơ bản là
nền nông nghiệp nước mội. Có thể khẳng định dứt khoát nguyên nhân hàng
đầu của tình trạng sạt lở ngày càng hung dữ hết nơi này đến nơi khác
gây tàn phá chết chóc ta vẫn cháy lòng nghe hằng ngày bây giờ chủ yếu
là do rừng tự nhiên bị triệt phá trên các vùng cao, đặc biệt ở Tây
Nguyên.
Cũng rất cần chú ý, ở Tây Nguyên hiện nay rừng tự nhiên ngày càng được
thay thế bằng một thứ cũng được gọi là rừng, “rừng cao su”. Theo tôi,
cao su thì không thể, không phải là rừng. Cao su là cây rễ cọc, dưới lô
cao su lại không cây gì còn sống được, hoàn toàn không có tác dụng giữ
nước, không thể tạo ra nước ngầm, nước mội thiện lành. Năm 2007 đột
ngột có quyết định của Chính phủ cho phép chuyển rừng nghèo sang trồng
cao su, và để nghe cho có vẻ chặt chẽ còn thêm quy định đối với rừng từ
500 ha trở lên phải có lệnh của Chính phủ. Lập tức rầm rộ phong trào hồ
hởi rừng giàu khai thành rừng nghèo, triệt hạ lấy gỗ bán đi trước đã,
trồng cao su nói sau, 500 ha phải có phép Chính phủ thì khó gì đâu, chỉ
cần chia nhỏ các dự án để tỉnh huyện cũng được ký phép, xong ngay! Năm
2007 trở thành năm phá rừng quyết liệt nhất ở Tây Nguyên. Đi trên Tây
Nguyên bây giờ, chẳng hạn ở đoạn gần 50 km quốc lộ 14 từ Pleiku lên
Kontum, có thể thấy hai bên đường xanh um rừng. Nhìn kỹ mà xem nhé, đấy
là màu xanh đánh lừa, rừng tự nhiên xưa đã triệt hạ xong hết rồi, đúng
vào cái năm 2007 nổi tiếng nọ, thay toàn bằng cao su.
Ở Mang Đen thuộc huyện Kon Plong của tỉnh Kontum có một khu rừng thông
khá đẹp. Lội sâu vào mới thấy hóa ra ở đây có tới hai loại thông :
những cây thông cổ thụ cao to, rải rác mỗi nơi vài ba cây, chen lẫn với
nhiều loại cây rừng khác. Đấy là thông do người Pháp trồng từ ngày xưa,
họ dùng máy bay rải hạt, hình như gồm hạt thông trộn lẫn với hạt nhiều
loại cây tạp. Tức cũng là rừng trồng, nhưng rất cố ý gần với tự nhiên.
Một khu vực khác, do ta tạo ra sau năm 1975, ngăn nắp, thông mọc theo
hàng tăm tắp, rõ là rừng trồng. Rừng trồng cũng tốt thôi, còn hơn đất
trụi. Nhưng vì sao người Pháp đã cố công tạo ra thứ rừng giống với tự
nhiên nhất có thể ? Ấy là bởi họ biết tự nhiên, qua chọn lọc lâu dài,
đã tạo nên quy luật sống hiền minh : ở đời vẫn vậy, việc gì cũng nên có
ít nhất là hai trở lên mới hay, chỉ một ắt dở. Con sâu mít chỉ ăn được
cây mít, chứ không ăn được cây xoài, trồng một rừng toàn mít thì dễ bị
sâu tàn phá, một rừng mít chen với nhiều loại cây khác sẽ an toàn hơn.
Tôi có anh bạn ở Kontum, từng là Chủ tịch rồi Bí thư tỉnh, chính anh là
người đã có công trồng rừng thông Mang Đen sau 1975. Có hôm ngồi với
nhau, tôi đem nói với anh về cái lẽ một hai nọ trong chuyện trồng rừng,
anh nghe, đồng ý với tôi, rồi bảo có lẽ từ nay mình nên trồng một hàng
thông chen với một hàng cây khác. Chúng tôi nhất trí với nhau chắc việc
gì cũng vậy, cố gắng càng gần tự nhiên nhất càng hay, chỉ có rừng tự
nhiên mới tạo được thảm thực vật đa tạp để “chế” nước mặt sang thành
nước ngầm, sinh ra nước mội tuyệt vời.
Vậy đó, Tây Nguyên. Kể chuyện linh tinh dông dài để biết rằng sạt lở
lung tung không thể dứt lần nào cũng vùi chết người báo động đỏ hằng
ngày bây giờ… hóa ra lại bắt đầu từ cái bữa trên núi cao ấy ta đã làm
thế nào đó khiến cho mất tiệt quyền sở hữu tập thể của cộng đồng ở cái
đơn vị xã hội bé tí và vô danh xa lắc chẳng mấy ai thèm đến xỉa kia đối
với đất rừng truyền đời của họ, nào có ai nghĩ ra được và ngờ!
*
Năm 2004 sau bạo loạn lần thứ hai ở Tây Nguyên (bạo loạn lần thứ nhất
xảy ra năm 2001), ông Nguyễn Tấn Dũng bấy giờ là Phó Thủ tướng đồng
thời là Trưởng ban Chỉ đạo Tây Nguyên có mời tôi cùng anh Đặng Nghiêm
Vạn, là nhà dân tộc học nổi tiếng, đến hỏi ý kiến. Cuộc gặp khoảng gần
2 tiếng buổi tối. Anh Vạn nói trước, tôi sau. Thấy thời gian rất ít,
tôi cố gắng bằng kiệm lời nhất có thể chỉ ra rằng một xã hội mà tế bào
hợp thành cơ bản là từng làng “độc lập và rời rạc” như Tây Nguyên, thì
xu hướng đòi tự trị của tộc người, tức vấn đề dân tộc, không thể là nội
sinh, tức tất yếu từ cơ sở xã hội của họ, ở một tộc người đã khó, liên
tộc người càng không thể. Nay nổ ra bạo loạn, lần thứ nhất năm 2001 ở
nơi có người Ê Đê, người Gia Rai, chừng nào cả người Mnông, lần thứ hai
năm 2004 loang rộng ra thêm tới Đak Đoa là vùng Ba Na, và hẳn còn tiếp,
là sự thể đang biến đổi về chất, điều vốn không thể đang trở thành có
thể. Vậy thì cần xem lại cái gốc là tế bào cơ bản ấy ra sao, ta đã làm
gì với nó mấy chục năm nay từ sau 1975 (bởi trước năm 1975 còn chiến
tranh thì dẫu ác liệt tới đâu cũng chỉ tàn phá vật chất và chết người
là chính, chứ không động tới được cơ cấu xã hội). Một sự thể vốn bị
chìm đi đã được đánh thức dậy. Tôi nói với ông Phó Thủ tướng rằng tôi
có một cuốn sách viết về chính chuyện này, nếu ông muốn tôi có thể gửi
đến cho ông mượn đọc. Sách tên là Sở hữu và sử dụng đất
đai ở Tây Nguyên,
tác giả là ba nhà khoa học Vũ Đình Lợi, Bùi Minh Đạo và Vũ Thị Hồng.
Sách in ở Nhà xuất bản Khoa học xã hội, Hà Nội, năm 2000, tức một năm
trước bạo loạn Tây Nguyên lần thứ nhất, bốn năm trước cuộc thứ hai, tất
nhiên phải được viết trước xa hơn. Trong sách, sau khi phân tích các
sai lầm mà họ gọi là “những khiếm khuyết” về chính sách đất đai của ta
ở Tây Nguyên, họ viết tiếp, tôi xin đọc nguyên văn: “Sẽ
là không quá sớm khi đưa ra lời cảnh báo rằng nếu không kịp thời có
giải pháp khắc phục những khiếm khuyết của quá trình khai thác và sử
dụng đất đai thì “vấn đề dân tộc” sẽ rất có thể phát sinh trong thực tế
nay mai ở Tây Nguyên, chí ít là mất ổn định, nghiêm trọng là lại đổ
máu, với sự can thiệp vừa kín đáo vừa trắng trợn của kẻ thù dưới chiêu
bài bảo vệ người dân tộc, bảo vệ quyền tự do tôn giáo. Một khi vấn đề
dân tộc và tôn giáo quyện vào nhau thì nguy cơ thật khó lường”.
Tôi nhớ nghe đến đó cả phòng họp đều lặng đi, kinh ngạc vì lời cảnh báo
hoàn toàn chính xác, sớm khác thường, đầy trách nhiệm, thẳng thắn và
dũng cảm của các nhà khoa học. Tôi nhìn ông Phó Thủ tướng, thấy riêng
ông vẫn thản nhiên. Xong buổi, ông đứng dậy xếp cặp ra về, không cảm ơn
hay chào anh Vạn và tôi, chắc ông thường quen vậy, lạ hơn, cũng không
thấy ông hỏi mượn sách.
[2] Les Jungles
Moï.
Indochine Sud-Centrale: Emile Larose, Paris, 1912. Đã được dịch một
phần chính dưới tên Rừng người Thượng, người dịch: Lưu Đình Tuân, NXB
Tri thức, 2009.
[3] Mọi Kontum
– Đã được Viện Viễn đông Bác cổ Pháp ở Hà Nội và NXB Tri thức tái bản
(kèm bản dịch ra tiếng Pháp) dưới tên Người Ba Na ở Kontum,
Hà Nội, 2011.
[4] Ở người Gia Rai có từ t’ring chỉ
liên minh một số làng, nhưng đó là liên minh tạm thời của một số làng
để cùng nhau ứng phó với trở ngại nào đó, không có lãnh thổ và tổ chức
hành chính tương ứng, khi vượt qua trở ngại đó rồi thì t’ring cũng tan.
[5] Tức làng Kong Hoa trong tiểu thuyết Đất nước đứng lên.
[6] Xem chương “Mối tình loạn luân và
vụ tự tử của chàng Tieng đẹp trai” trong tác phẩm Chúng tôi ăn rừng
của Georges Condominas.
[7] Trước đây gọi là luân canh, nhưng có thể dễ bị hiểu lầm năm nay
trồng lúa sang năm chuyển sang trồng ngô chẳng hạn. Luân khoảnh là khi
rẫy đã bạc màu thì chuyển sang rẫy khác, để rẫy cũ hưu canh, mấy chục
mới sau quay lại khai thác.
Nhân đây cũng xin nói thêm, gọi chung “nương rẫy” là sai, rẫy thì hằng
vài ba năm lại được luân khoảnh, nương là nơi đất đã được làm tơi ra và
cố định, để canh tác như một miếng vườn, hai phương thức canh tác hoàn
toàn khác nhau. Ở Tây Nguyên là rẫy chứ không phải nương.
[8] Chỉ cần nhìn nhà rông Ba Na và nhà dài Ê Đê ở Bảo tàng dân tộc học
Hà Nội để biết nhưng dân tộc có nền kiến trúc như vậy không thể sống
rày đây mai đó.
[9] Chính vì vậy sau khi đốt rẫy, người ta để lại những thân cây to
trên mặt đất, không mang về lấy gỗ, nhằm giữ đất màu khỏi bị mưa cuốn
trôi mất.
NGUỒN : Văn Việt
Các thao tác trên Tài liệu