Thị trường chứng khoán
Thị trường chứng khoán Việt Nam: kinh tế miền viễn tây?
Vũ
Quang Việt
Chỉ số chứng khoán VN-index (thành phố Hồ Chí Minh) tăng gần 144% trong năm 2006, và chỉ trong vòng chưa đầy 2 tháng đầu năm 2007, tăng 44%. Chỉ số này vào 28/2/2007 là 1136 như vậy là đã tăng 11 lần kể từ ngày mở sàn buôn bán ngày 28 tháng 7 năm 2000. Số trương mục đăng ký giao dịch chứng khoán tăng 4 lần, từ 32 ngàn lên 120 ngàn.
Đấy là thị trường chứng khoán chính thức. Còn một thị trường khác, rất tự do kiểu kinh tế miền Viễn tây nước Mỹ trước đây, hoạt động trên internet hoặc vỉa hè, buôn bán cổ phần các công ty chưa được phép bán trên thị trường chính thức ở Thành phố Hồ Chí Minh hay Hà Nội. Số người giao dịch trên thị trường này có thể lên tới 500 ngàn, 5 lần cao hơn thị trường có kiểm soát. Thị trường miền Viễn tây ở Việt Nam có phần giống như thị trường OTC (over-the-counter) ở Mỹ và các nước khác, cho phép buôn bán cổ phiếu của các công ty thường là chưa hội đủ điều kiện để được phép đăng ký trên thị trường chứng khoán chính thức, thị trường OTC trao đổi thẳng giữa người bán và người mua không qua trung gian. Nhưng ngược lại OTC chỉ trao đổi cổ phiếu của các công ty chưa có quá trình hoạt động nên mức rủi ro rất cao. Dù vậy, thị trường OTC ở các nước vẫn có tổ chức ở mức nhất định, bị Ủy ban Chứng khoán (SEC) kiểm soát, giá cả và cổ phiểu trao tay phải đăng ký trong vòng 90 giây.
Sự nổi dậy của thị trường chứng khoán ở Việt Nam có hai mặt. Mặt cơ bản và quan trọng nhất là dân chúng đã biết thêm một cửa ngõ dùng tiền dư, thay vì chỉ bỏ tiền vào ngân hàng hay mua trái phiếu (bonds) để nhận một lãi suất nhiều khi thấp hơn cả lạm phát; họ có thể tham gia gián tiếp vào đầu tư, làm chủ doanh nghiệp bằng cách bỏ vốn mua cổ phiếu, lời ăn lỗ chịu mà không phải tự đứng lập doanh nghiệp.
Về mặt cơ bản này, thị trường cổ phiếu tạo thêm một kênh quan trọng nhằm thu hút vốn trong nền kinh tế. Không những thế kênh này còn quan trọng hơn cả kênh ngân hàng vì nó tạo cơ hội cho các nhà doanh nghiệp có ý tưởng mới hợp tác với những người sẵn sàng bỏ vốn trên cơ sở rủi ro cao đi liền với với lợi nhuận cao. Nhưng cần phải thấy đóng góp của thị trường chứng khoán vào phát triển kinh tế chính là số vốn mới thu hút được hàng năm qua phát hành cổ phiếu mới IPOs (initial public offerings).
Bảng
dưới đây cho thấy ở Việt Nam
tổng số tiền để dành (ngắn,
trung và dài hạn) trong ngân
hàng
hiện lên tới trên 15 tỷ đô
la Mỹ năm 2006 và tăng rất nhanh (coi
biểu đồ 1). Tổng số tiền này
hiện nay gần bằng 40% GDP, chỉ ở mức
năm 1990 tại Trung Quốc (coi biểu đồ
2). Điều này cho thấy thị trường
chứng khoán có cơ hội phát
triển vì nguồn vốn sẵn có trong
nền kinh tế tăng mạnh.
Nguồn: Số liệu tài khoản để dành từ Asian Development Bank, Key Indicators 2006. GDP từ Liên Hợp Quốc. Thời giá chứng khoán từ US Bureau of Census, Statistical Abstract of the US.
Tất
nhiên, thị trường này đã nổ
bùng sau khi Việt Nam trở thành thành
viên của WTO, với kỳ vọng doanh nghịêp
nước ngoài tăng cường đổ
vốn vào thị trường Việt Nam. Chỉ
có điều nó nổ bùng một
cách đầy rủi ro. Vấn đề
phát triển nằm ở chỗ số cung
chứng khoán mới trên thị trường
ngày càng cao và nguồn vốn cung cho
thị trường cũng ngày càng cao.
Điều này chưa xảy ra ở Việt
Nam bởi vì số cung chứng khoán quá
hạn chế. Giá trị cổ phiếu tăng
vọt ở Việt Nam thời gian qua không phải
do sự phát triển của thị trường
cổ phiếu mà do đầu cơ và
tâm lý đánh bạc vì cầu
tăng mạnh chạy đuổi mua số lượng
chứng khoán hạn chế.
Chúng
ta thấy giá trị hiện hành của
chứng khoán trên thị trường hiện
nay ở Việt Nam bằng khoảng 25% GDP, so với
Trung Quốc là 33%, Pháp là 79%, Đức
là 43%, Nhật là 79% và Mỹ
là
140%. Tỷ lệ giá trị chứng khoán
của Việt Nam như vậy là quá lớn.
Nó chỉ phán ảnh tính đầu
cơ hơn là giá trị thực sự.
Chỉ số P/E của Việt Nam hiện nay là
75, so với Trung Quốc là 151.
Đối với đánh giá của nước
ngoài thì chỉ số này của Trung
Quốc cũng là lớn hơn các nước
trong khu vực vì tỷ lệ lãi suất
trung bình của doanh nghiệp ở TQ thấp
hơn ở các nước khác.2
Tính chất đánh bạc hiện nay trên thị trường chứng khoán như vậy là quá rõ và sự thụt giá bất cứ lúc nào sẽ khó tránh khỏi. Có thể nó là điều cần thiết để thị trường tự điều chỉnh. Về việc này nhà nước không những không cần can thiệp mà cần cảnh giác thị trường về điều có thể xảy ra. Thị trường chứng khoán còn quá nhỏ bé do đó việc xuống giá sẽ không ảnh hưởng đáng kể tới kinh tế. Điều mà nhà nước nên làm là:
-
Tăng cường tính minh bạch và công bằng trên thị trường. Mọi doanh nghiệp có chứng khoán được bán trên sàn phải công bố báo cáo tài chính hàng quí, và phải công bố cho mọi người sử dụng cùng một lúc. Ủy ban Chứng khoán (UBCK) không cần phải kiểm tra trước khi công bố vì doanh nghiệp phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về các báo cáo này.
-
Tăng cường việc đưa thông tin lên website của UBCK (nếu ai muốn đánh giá chất lượng hiện nay của UBCK thì chỉ cần lên coi website này).
-
Tăng cường vai trò kiểm tra của UBCK trong việc theo dõi, và đưa ra xử các vụ mua bán dựa vào thông tin nội bộ và vi phạm luật chứng khoán.
-
Đưa thị trường OTC vào vòng kiểm soát, theo nghĩa các doanh nghiệp có cổ phần mua bán (dù không qua trung gian), giá cả và số lượng mua bán phải đăng ký trên thị trường OTC dưới sự kiểm soát của UBCK.
-
Để giảm số cầu cổ phiếu kiểu đánh bạc, nhà nước cần ngăn chặn việc tư nhân và doanh nghiệp mượn tiền ngân hàng để chơi cổ phiếu.
-
Nhà nước cần tăng số cung cổ phiếu trên thị trường qua việc cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước. Để tiến hành cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước mà không để cho giới quan chức và lãnh đạo công ty hiện hành lạm dụng, nhà nước có thể cổ phần hoá, đem bán một phần cổ phần trên sàn chứng khoán; phần cổ phiếu còn lại sẽ được đem bán sau này.
-
Áp dụng thuế thu nhập đối với thu nhập (capital gains) tạo ra do tài sản (chứng khoán hay địa ốc) tăng giá. Chỉ áp dụng thuế thu nhập đối với lương như hiện nay là thiếu công bằng vì thuế này chủ yếu là đánh vào người nghèo hoặc trung lưu chứ không phải người giầu. Việc áp dụng thuế này cũng ngăn chặn một phần khuynh hướng khuynh đảo thị trường cổ phiếu của tư bản nước ngoài. Tất nhiên chưa cần thiết hiện nay nhưng việc đưa vào luật khả năng đình hoãn việc chuyển ngân ra nước ngoài do bán cổ phiếu trong vòng cao nhất là 1 năm khi tình hình nghiêm trọng đòi hỏi hành động như trên.
Vũ Quang Việt
1 Tiền Phong online, TTCK Việt Nam đối mặt với khá nhiều rủi ro, (01/03/2007)
2 Sonia M.L. Wong, China's stock market: a marriage of capitalism and socialism, Cato Journal Vol.26, No. 3 (Fall 2006).
Các thao tác trên Tài liệu