Thông điệp "BÌNH MINH II"
Thông điệp "BÌNH MINH II"
Huy Đức
Cho dù điều gì thực sự diễn ra ở hậu
trường, người dân cũng nhận thấy thông điệp từ vụ tàu Bình Minh II :
Các nhà lãnh đạo Việt Nam đã bắt đầu nhiệm kỳ với thái độ rõ ràng hơn
trước “ anh Hai ” Trung Quốc. Vụ “ Bình Minh II ” xảy ra khoảng năm
tuần sau khi một “ cột mốc ” chủ quyền Việt Nam được cắm trên vùng Tư
Chính. Kể từ sau khi hoàn thành việc phân giới trên bộ, Hà Nội đã không
còn ngại đụng chạm với Bắc Kinh. Từ cuối năm 2009 trở đi, người phát
ngôn Bộ Ngoại giao Nguyễn Phương Nga, thỉnh thoảng, đã được nói những
lời đàng hoàng nhắm vào Trung Quốc. Truyền thông đã được sử dụng trước
những đe dọa đến từ phương Bắc. Lòng dân lại được khai thác sau một
thời gian bị kiểm soát ngặt nghèo. Báo “ lề phải ” cũng giật tít kiểu
Nhân Dân thời 1978 : Biển Đông không
phải là ao nhà Trung Quốc.
Nhà báo Đào Tuấn viết, “ không thể
giữ nước bằng lòng phẫn nộ ”, anh đòi “ phải làm gì đó ” trên Biển Đông.
Một blogger được nói là làm việc trên tàu Bình Minh II viết, khi tàu
của anh bị tấn công, các “ tàu hải
quân giả dạng tàu bảo vệ ” đã sẵn sàng “ phi thẳng vào ” tàu giặc. Nhưng, “ các anh ấy nói, chưa có lệnh từ Bộ chính
trị, chưa dám bắn dù tức vãi ra rồi ”. Thời nào cũng có những
người Việt Nam sẵn sàng tử chiến với giặc Tàu. Nhưng, xương máu chỉ nên
hy sinh những khi không còn con đường nào khác.
Không có gì khó khi tập hợp lòng dân trước “ hiểm họa Bắc Kinh ”, nhưng
mỗi khi máu nóng đã được bốc lên thì thường chỉ có chiến tranh mới giải
tỏa được lòng phẫn nộ. Năm 1978, khi Trung Quốc bắt đầu hục hặc với
Việt Nam, không có ngôn từ nào là đã không được dùng thường xuyên trên
báo chí. Hai tuần sau khi Trung Quốc tấn công Biên giới. Ngày 5-3-1979,
Chính phủ ra Nghị định “ Quân sự hóa toàn dân ”, cùng ngày, Hoàng Tùng
viết trên báo Nhân Dân : “ Cả nước
đánh giặc, toàn dân là lính ”. Hàng ngàn thanh niên đã chích máu
tình nguyện, khoảng một triệu sáu bộ đội đã phải cầm súng suốt 10 năm.
Trong số hàng trăm ngàn người lính đã hy sinh ở phía Bắc và ở
Campuchia, trong số hàng triệu anh em đã trở lại quê cũ làm dân và tới
Đông Âu làm thuê, có ai biết vì sao họ đã phải trải qua mười năm cầm
súng ấy.
Công bố hành vi du côn của Trung Quốc với tàu Bình Minh II là rất cần
thiết. Nhân dân có quyền được biết điều gì thực sự đang xảy ra trên
lãnh thổ của ông cha. Nhưng, thông tin cho dân phải là một việc làm
thường xuyên chứ không phải là sách lược trước từng chiến dịch. Có thể
nói, nếu như người dân được tin cậy và sát cánh với chính quyền thì
đường biên giới trên bộ Việt-Trung sẽ có nhiều phần khác.
Ngày 19-10-1993, sau một năm đàm phán, hai bên ký được những “ nguyên tắc cơ bản giải quyết vấn đề biên
giới lãnh thổ Việt – Trung ”. Trên cơ sở “ Công ước hoạch định
biên giới ký giữa nhà Thanh và Pháp ”, hai bên đồng ý sẽ “ đối chiếu xác định lại toàn bộ đường biên
”. Có một khoảng thời gian khá dài đã được dành để đôi bên đưa ra bản
đồ hiện trạng. Vào thời điểm này, phía Việt Nam đang là một bãi mìn dày
đặc. Các chiến sĩ biên phòng cho biết, các đoàn khảo sát đã không thể
tiếp cận đến các ngóc ngách của đường biên. Nhưng, điều đáng nói, theo
các chiến sĩ biên phòng, thay vì huy động sự góp sức của nhân dân,
không hiểu vì lý do gì công việc này đã được tiến hành bí mật. Một vị
đồn trưởng Biên phòng ở Hà Giang nói : “ Chúng tôi thuộc địa hình đến từng milimet
nhưng các đoàn khảo sát đã bí mật luôn cả với chúng tôi ”.
Người dân và các chiến sĩ biên phòng cho rằng, nếu có sự tham gia của
họ, “ bản đồ hiện trạng ” sẽ
thể hiện đủ hơn phần đất mà ông cha đã làm ăn sinh sống.
Trong quá trình tranh chấp, nếu những đòi hỏi vô lý của Trung Quốc được
công khai thì thái độ của người dân sẽ là chỗ dựa cho các nhà đàm phán.
Khi đối chiếu bản đồ hiện trạng, có 289 khu vực hai bên “ có nhận thức
khác nhau ” với tổng diện tích khoảng 231 km2. Sau 16 vòng đàm phán,
kết quả : “ quy thuộc khoảng 114,9
km2 cho Việt Nam và khoảng 117,2 km2 cho Trung Quốc ”. Nhìn các
con số thì “ đây là một kết quả công
bằng ”. Nhưng, khi dừng lại ở một số địa danh, không có người
Việt Nam nào lại không cay đắng.
Tại Lạng Sơn, đường biên giới mới đi cách Mục Nam Quan một quãng xa.
Các nhà đàm phán trấn an là nó “ đi
qua Km0, mốc 19 cũ của Pháp ”. Nhưng, những ai từng đọc báo Nhân
Dân và Sài Gòn Giải Phóng, số ra ngày 19-3-1979, sẽ nhớ, Bị vong lục
của Bộ Ngoại giao Việt Nam đã nói rõ rằng : “ Phía Trung Quốc đã ủi nát mốc biên giới
số 18 nằm cách cửa Nam Quan 100 mét để xóa vết tích đường biên giới
lịch sử rồi đặt cột Km0 sâu vào lãnh thổ Việt Nam trên 100m ”.
Các nhà đàm phán cũng cho hay, từ điểm nối ray, Việt Nam đã “ Bắc tiến
” được 148m. Phần tranh cãi ở đây gồm 300m, nước to chỉ lấy được hơn
Việt Nam 2m kể cũng đáng gọi là thành công. Nhưng, 300m đường biên ấy
không hề là một vùng chồng lấn dẫn đến “ nhận thức khác nhau ”. Bị Vong lục
năm 1979 của Bộ Ngoại giao đã nói : “ Năm
1955, khi giúp Việt Nam khôi phục đoạn đường sắt từ biên giới tới Yên
Viên, lợi dụng lòng tin của Việt Nam, phía Trung Quốc đã đặt điểm nối
ray vào vào sâu trong lãnh thổ Việt Nam 300m so với đường biên giới
lịch sử ”. Các nhà đàm phán cũng trích dẫn “thông lệ quốc tế” để
nói việc phân chia thác Bản Giốc như là một thành công : “ Hai bên điều chỉnh đường biên giới đi qua
cồn Pò Thoong, quy thuộc 1/4 cồn, ½ thác chính và toàn bộ thác cao cho
Việt Nam ”. Hình như họ quên, Bị Vong lục 1979 đã nói, toàn bộ
thác Bản Giốc và cồn Pò Thoong là của Việt Nam, Trung Quốc chỉ mới “ đưa 2.000 người sang cưỡng chiếm từ ngày
29-2-1976 ”. Ở điểm cao 1509, tuy chỉ nhượng bộ có 0,87 hecta,
nhưng mỗi tấc đất ở đó đều là xương, là máu.
Nếu các nhà đàm phán biết lịch sử sẽ phán xét họ ra sao, chắc chắn sẽ
sáng suốt hơn khi đối diện với Bản Giốc, Ải Nam Quan và cao điểm 1509.
Biên giới Việt-Trung dài 1.406 km, thời Pháp-Thanh chỉ cắm 341 cột mốc,
giữa núi non hiểm trở chắc chắn không ít nơi hai bên đã có “ nhận thức
khác nhau ”. Khi thương lượng, muốn nhận thì cũng phải cho. Nhưng, ở
những nơi mà từ xa xưa, trong tiềm thức của người Việt Nam đã khắc dấu
lãnh thổ của cha ông, thì một tấc cũng không thể đem ra thương lượng.
Việc phân giới 1509, Bản Giốc, Ải Nam Quan, lẽ ra nên trưng cầu dân ý.
Thái độ người dân cũng là vũ khí của các nhà đám phán, đồng thời giúp
họ ý thức đầy đủ trách nhiệm lịch sử của mình. Nếu người dân nói không
thì hãy giữ nguyên hiện trạng những vùng tranh chấp ấy. Trong số 2.000
cột mốc trên đường biên phía Bắc, để lại vài ba cột để con cháu làm
tiếp cũng không sao. Bảo lưu những vùng tranh chấp là kinh nghiệm của
không ít quốc gia. Đành rằng, không có quốc gia nào lại ứng xử như
người Trung Quốc. Các chiến sĩ biên phòng Cao Bằng kể, khi người dân
cày ruộng ở sát đường biên, biên phòng phải dựng lưới B40 chặn “ củ đậu
” được ném sang từ Trung Quốc. Rất lạ là những chuyện như thế không
được đài báo đưa tin. Những chuyện lén lút dời cột mốc, ném đá dọc
đường biên, cắt cáp và trấn lột ngư dân… có thể bị dửng dưng trước các
nhà lãnh đạo mặt mo, nhưng hơn một tỷ người dân Trung Quốc chắc cũng có
hàng chục triệu người xấu hổ.
Người Nhật giàu có vậy mà vẫn chưa đòi được quần đảo Kuryl từ Liên xô.
Việc đòi lại Hoàng Sa có thể sẽ là sự nghiệp ngàn năm của cháu con
người Việt. Sự nghiệp ấy đòi hỏi sự bền bỉ, đường đường chính chính,
chứ không phải thỉnh thoảng lại làm cho người dân phẫn nộ lên. Nên rút
kinh nghiệm đàm phán phân định biên giới trên bộ mà phát huy vụ “ Bình
Minh II ”. Hãy công khai tất cả những trò hèn hạ của Bắc Kinh. Hãy để
nhân dân đứng sau lưng những người giữ biển.
HUY ĐỨC
NGUỒN : Blog Huy Đức
Các thao tác trên Tài liệu