Hậu báo “Văn nghệ” và “Nỗi buồn chiến tranh” (kỳ 1)
Hồi ký
Hậu báo “Văn nghệ” và
“Nỗi buồn chiến tranh”
(kỳ 1)
Nguyên Ngọc
Có thể gọi khoảng ba, bốn năm sau tháng 12 -1988 là “thời kỳ hậu báo Văn nghệ”, dù tất nhiên sau đó tờ báo mang cái tên ấy vẫn còn, lúc đầu được giao cho anh Hoàng Minh Châu vốn là người rất hiền lành và thường im lặng tạm làm Tổng biên tập, rồi chính thức giao cho Hữu Thỉnh làm nhiều năm dài. Tôi không có gì để nói về tờ báo này.
Tuy nhiên ảnh hưởng của một năm rưỡi ngắn ngủi báo Văn nghệ trước đó, và của cách Ban
Thư ký Hội Nhà văn xử lý nó thì còn kéo khá dài, trong văn học và trong
xã hội. Mặt khác đây cũng là một thời kỳ khá sôi động của văn học,
trong không khí của một công cuộc Đổi mới vừa hào hứng vừa đã sớm bộc
lộ những báo hiệu dở dang.
Kỳ thực câu chuyện chung quanh việc xử lý báo Văn nghệ đã chính thức diễn ra
trước đó đến mấy tháng, và có điều thú vị, là ở từ cả hai phía, như ta
có thể thấy qua đôi điều sau đây.
Ngày 5 tháng 9 năm 1988, Ban Chấp hành Hội Nhà văn Việt Nam khóa III đã
họp hội nghị toàn thể lần thứ VII. Ngoài các ủy viên Ban Chấp hành và
đại diện các cơ quan thuộc Hội, còn có ông Đào Duy Tùng, ủy viên Bộ
Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng tham dự, là chuyện hiếm. Hội nghị này
ra Nghị quyết : “ Vừa qua tuần báo
Văn nghệ có một số đóng góp tích cực vào công cuộc đổi mới, song bên
cạnh đó, tuần báo Văn nghệ đã có những khuyết điểm và lệch lạc, trong
đó có những lệch lạc nghiêm trọng. Ban Chấp hành giao cho Ban Thư ký
uốn nắn, chấn chỉnh tuần báo Văn nghệ về nội dung và tổ chức nhằm nâng
cao chất lượng của tuần báo Văn nghệ theo hướng đổi mới ”. Ban
Chấp hành này, như tôi đã có lần nói, đông một cách kỳ lạ, đến trên 40
người, đến nỗi trụ sở Hội Nhà văn không đủ chỗ ngồi, phải sang họp nhờ
ở hội trường báo Tiền phong.
Nghị quyết nói trên được phổ biến rộng rãi trong một Thông báo của Hội.
Như tôi đã kể trong một chương khác, trước đó ông Đào Duy Tùng, có ông
Trần Trọng Tân tháp tùng, đã đến làm việc với chúng tôi, nghe tôi trình
bày quan điểm, phương hướng, cách làm của báo, ông Tùng bảo cơ bản tán
thành, nhưng khi tôi đề nghị cho đưa nội dung buổi làm việc lên báo,
thì ông Tùng bảo : “ Hôm nay mới là
ý kiến riêng của tôi. Để chúng tôi còn trao đổi thêm với Ban Thư ký Hội…”.
Thế là rõ rồi, kết quả của việc ông Tùng “ còn trao đổi thêm với Ban Thư ký Hội
” chính là cái nghị quyết này đây.
Người đầu tiên lên tiếng phản ứng với cái thông báo ấy lại chính là bác
sĩ Nguyễn Khắc Viện. Ngày 22-10-1988, báo Tuổi trẻ Thành phố Hồ Chi Minh đăng
bài Xin cho biết rõ hơn của anh. Nguyên văn như sau :
“ Tin báo Văn nghệ đã phạm những lệch lạc nghiêm trọng, nay
cần phải uốn nắn lại về nội dung và tổ chức làm cả nhà tôi xôn xao. Số
là, từ một năm nay, báo Văn nghệ đến, là cả nhà, hai vợ chồng tôi, mấy đứa
con chí cháu – những cô cậu thanh niên trước đó không hề mó đến báo –
tranh nhau đọc, rồi mấy nhà láng giềng thúc giục đọc nhanh cho họ mượn.
Mọi người hỏi tôi lệch lạc thế nào? Rồi báo trở lại như cũ hay sao? Rồi
cương vị – họ nói số phận – Nguyên Ngọc sẽ như thế nào. Và nay mai, một
số kiều bào về lại chạy lại tôi hỏi như vậy (một số kiều bào quen thói
hễ trong nước có chuyện gì thắc mắc cứ “đè” tôi mà chất vấn, như là tôi
phải chịu trách nhiệm).
Tôi đành trả lời : bản thân tôi cũng
chưa rõ. Và tôi rất mong đợi được biết rõ hơn: trong Ban Chấp hành Hội
Nhà văn, ai phê phán Văn nghệ như thế nào, khiển trách Nguyên Ngọc như
thế nào, nhà văn với nhau, cứ giấy trắng mực đen, không việc gì mà
tránh né, không việc gì giấu tên tuổi (không làm như ông nọ trong tạp chí
Cộng sản).
Là bạn đọc, hơn nữa là người cầm bút,
cũng đôi phen viết cho Văn nghệ, tôi càng mong biết rõ, để chỉnh lại ngòi
bút của mình, tránh những lệch lạc nghiêm trọng, và cuối cùng được đăng
(và được nhuận bút).
Rất mong được đọc trong Văn
nghệ những bản tham luận đã trình
bày trong cuộc họp của Ban Chấp hành Hội Nhà văn vừa qua ”.
Còn có kiểu phản ứng lo lắng khác. Ngay trong đêm Nguyễn Đình Thi và
Chính Hữu kéo sang tòa soạn để lúng ta lúng túng tuyên bố quyết định
rất khôi hài “ thuyên chuyển công tác
” tôi, tôi còn ngồi trong nhà để đối mặt với hai ông, mãi lúc xong việc
ra về mới biết khi bên trong nhà diễn ra vở bi hài kịch của Ban Thư ký
với báo, thì bên ngoài đã có rất nhiều người hình như đủ các giới, có
cả nhiều xe xích lô hằng ngày vẫn chở báo đi phân phối cho các quầy lâu
dần cũng đã trở thành một kiểu cộng tác viên quen thân gắn bó với báo…,
đã tập hợp rất đông, chăm chú theo dõi cuộc quyết định số phận tờ báo
và Tổng biên tập của nó. Đến nỗi công an sợ có bạo động, đã cho một lực
lượng kha khá phục sẵn vòng ngoài… Ngày ấy còn chưa có kiểu biểu tình
rầm rộ như trong các vụ chống Tàu, chống luật đặc khu v.v… sau này. Mới
manh nha một kiểu biểu lộ thái độ xã hội của công dân các tầng lớp, mà
rồi sẽ được coi là một bộ phận của xã hội dân sự hay phong trào dân chủ.
Tất nhiên Ban Thư ký Hội Nhà văn trả lời bằng im lặng, coi như không hề
biết có bài báo và các câu hỏi của anh Viện. Họ cũng không hề để ý đến
phản ứng của công chúng. Tôi đặc biệt chú ý và kinh ngạc về điều này ở
những người như Chính Hữu, Nguyễn Đình Thi, đặc biệt là Chính Hữu : họ
đã hoàn toàn mất đi cảm giác về nhân dân. Nghĩa là về con người. Thế mà
họ là “ nghệ sĩ ”, họ lãnh đạo cái Hội Nhà văn này ! Và hằng ngày họ
thuyết giảng về văn học và nghệ thuật cách mạng. Sao thế nhỉ ? Và từ
bao giờ ? Tôi đã nói ở Hòa bình khó
nhọc về cái buổi sáng ngày 28/11/88 tôi và chị Ngọc Trai sang làm
việc với Ban Thư ký, khi chị Ngọc Trai nhắc rằng các anh nên chú ý, báo
Văn nghệ bây giờ đã lên đến
trên 10 vạn số mỗi kỳ, nghĩa là có hàng chục vạn người đọc, thì Chính
Hữu nhếch mép cười, khinh bỉ trả lời : “ Một cô gái cởi truồng đứng ở cột đèn giữa
phố cũng có hàng nghìn vạn người đổ lại xem ! ”. Thoạt đầu tôi
giận đến tím mặt. Cứ cho mỗi tờ báo Văn
nghệ có hai tới ba hay bốn người đọc, chứ không nhiều đến như
anh Nguyễn Khắc Viện kể, thì theo Chính Hữu hằng tuần có đến khoảng nửa
triệu người Việt Nam đổ xô chen chúc nhau đi xem một cô gái ở truồng
đứng tựa cột đèn. Hỗn láo với công chúng khó có thể hơn.
Nhưng rồi sau đó là một nỗi buồn tê tái. Hội Nhà văn, muốn nói gì thì
nói, theo bất cứ truyền thống nào, là cái nơi cao quí, văn hóa, văn
minh nhất của một đất nước. Ở đấy lại có những con người sa đọa đến mức
này ư ?
Chính Hữu đã đến mức, một lần khác, ngồi trên xe cùng đón chúng tôi đến
cơ quan, còn có mấy người cùng đi, bỗng nói : “ Tôi biết hôm qua có người nước ngoài đến
nhà anh Ngọc ”. Tôi bảo ngay : “ À, ra vậy là trong Ban Chấp hành chúng ta
có cả chỉ điểm đấy nhỉ. Đã kịp đi báo công an chưa ? ”. Người
nước ngoài đến nhà tôi hôm trước được Chính Hữu phát hiện là Bertrand
de Hartingh, trưởng đại diện Viễn Đông Bác Cổ ở Hà Nội. Hôm ấy anh đèo
xe máy Georges Condominas, nhà dân tộc học lừng danh thế giới đến nhà
tôi chơi. Condo mang cho tôi mấy cuốn sách một chị bạn tôi ở Paris gửi
nhờ ông chuyển. Chúng tôi đã có một buổi trò chuyện thú vị về Tây
Nguyên…
Học giả Nguyễn Khăc Viện
Phản ứng của công chúng đối với vụ xử lý báo Văn nghệ rất rộng rãi. Một trong
những vụ gây tiếng vang khá lớn là cuộc đi “ xuyên Việt ” của anh em
hội Văn nghệ Lâm Đồng, do anh Bùi Minh Quốc và anh Tiêu Dao Bảo Cự dẫn
đầu, từ Đà Lạt ra đến Hà Nội. Trên đường các anh đã có 15 cuộc gặp gỡ
với văn nghệ sĩ và công chúng các tỉnh, cùng thảo và ký một bản Tuyên
bố, yêu cầu sớm thể chế hóa Nghị quyết 05 của Bộ Chính trị về văn hóa
văn nghệ (Nghị quyết này là công trình đặc sắc của Ban Văn hóa Văn nghệ
Trung ương do anh Trần Độ và Nguyễn Văn Hạnh chủ trì, tranh thủ được sự
nhất trí của Bộ Chính trị – nhưng rồi về sau được chính cái Bộ Chính
trị ấy vứt vào sọt rác)… Đặc biệt về báo Văn nghệ, Tuyên bố nêu rõ : “ Vụ tuần báo Văn nghệ là một điểm nóng trong cuộc xung đột giữa
xu thế đổi mới với bảo thủ trên lãnh vực văn nghệ nói riêng và trên
toàn xã hội nói chung. Chúng tôi ủng hộ sự đổi mới trên tuần báo Văn
nghệ thời gian vừa qua và phản đối
nghị quyết của Ban Chấp hành Hội Nhà văn cho rằng tuần báo Văn
nghệ có những lệch lạc nghiêm trọng…”.
Khi đoàn sắp rời Huế thì nhận được điện của Tỉnh ủy Lâm Đồng lệnh quay
trở về ; các anh điện trả lời sẽ trở về sau khi ra đến Hà Nội, gặp và
trao Tuyên bố cho Ban Bí thư Trung ương. Trên đường về, có tin Bộ
trưởng Công an Mai Chí Thọ sẽ cho chặn bắt họ ở Thanh Hóa, nhưng sau
tính lại thế nào lại thôi. Về đến Đà Lạt, Bùi Minh Quốc và Tiêu Dao Bảo
Cự bị Tỉnh ủy Lâm Đồng kỷ luật cách chức và khai trừ, vì tội “ hoạt
động bè phái ”… Để làm gì ? Để ủng hộ và đòi hỏi có Đổi mới thì phải
Đổi mới thật sự !
Nghĩ lại, đòi hỏi thế, cho đến tận bây giờ, cũng là ảo tưởng và sẽ bị
trừng trị thôi.
Vậy mà cuộc đi hùng dũng ấy của các anh đã khiến không ít người bị liên
lụy theo nhiều cách khác nhau. Vừa rồi tôi có việc đi qua Thanh Hóa,
được một anh chủ khách sạn rất nhiệt tình mời nghỉ ăn trưa. Khách sạn
của anh rất hoành tráng, tôi không nhớ thang máy đưa chúng tôi lên tầng
mấy, chỉ biết tầng chúng tôi dừng lại được gọi là Tầng Hoàng Đế, phòng
ăn cũng là Phòng Hoàng Đế. Bữa tiệc tất nhiên thịnh soạn, trò chuyện
rôm rả và rất cởi mở, mới biết hóa ra anh cũng đã từng bị dính líu với
cuộc đi “ bè phái ” của ông Quốc và ông Cự hồi 1988. Bấy giờ anh là
phóng viên thường trú của Đài Tiếng
nói Việt Nam ở rất nhiều nơi, kể cả các tỉnh Tây Nguyên, rồi
từng làm đến trưởng phòng Thời sự của đài. Nhưng anh đã có ký tên vào
bản Tuyên bố đòi Đổi mới thật sự và ủng hộ báo Văn nghệ của hai ông.
Các nhà cầm quyền ở ta vốn có trí nhớ rất dai. Công tác giỏi giang và
xông xáo thế nhưng anh bị treo kết nạp Đảng mất hơn chục năm. Còn may…
Về cuộc ra đi khỏi báo Văn nghệ
của tôi còn có chuyện nhỏ nữa cũng hơi bi hài, xin kể nốt trước khi
sang hồi khác. Ngày người ta xử lý tôi ở báo thế nào lại đúng cùng dịp
Ban Chấp hành Hội Nhà báo Việt Nam họp dưới sự chủ trì của Chủ tịch Hội
Phan Quang. Văn nghệ của tôi cũng là báo chứ, cho nên tôi đã viết một
bức thư gửi Ban Chấp hành hội nhà báo trình bày việc người ta đã cách
chức tôi một cách vô nguyên tắc và ám muội, đề nghị Ban Chấp hành Hội
Nhà báo cũng là của tôi có ý kiến. Thư gửi Chủ tịch Phan Quang. Trong
Ban Chấp hành Hội Nhà báo bấy giờ có anh Tô Hòa Tổng biên tập báo Sài Gòn giải phóng, và chị Kim
Hạnh, Tổng biên tập báo Tuổi trẻ
Thành phố Hồ Chí Minh. Tôi có báo cho anh Tô Hòa biết và đưa thêm cho
Kim Hạnh một bản sao bức thư. Nghỉ trưa xong, vào đầu phiên họp chiều,
anh Tô Hòa đứng dậy hỏi : Tôi được nghe nói anh Nguyên Ngọc, Tổng biên
tập báo Văn nghệ có thư gửi Ban Chấp hành chúng ta, đề nghị Chủ tịch
Phan Quang công bố cho Ban Chấp hành biết nội dung. Ông Phan Quang bảo
à có, à có, và cúi xuống mở cặp lục đi lục lại hồi lâu : Chết rồi, rất
xin lỗi các anh chị, trưa về tôi đọc xong bỏ quên ở nhà mất rồi ! Kim
Hạnh chờ mấy giây, mới lên tiếng : Không sao đâu anh Phan Quang ơi, anh
bỏ quên, thì tôi cũng có một bản ở đây. Và chị trân trọng trao cho Chủ
tịch Phan Quang bức thư của tôi… Phiên họp Ban Chấp hành Hội Nhà báo
Việt Nam chiều hôm ấy được một bữa cười rất khoái…
Tất nhiên cái Ban Chấp hành ấy cũng chẳng khác gì Ban Chấp hành Hội Nhà
văn, cùng một giuộc cả thôi mà. Tôi không hề ảo tưởng chờ đợi gì ở Ban
Chấp hành Hội của ông Phan Quang. Viết và gửi bức thư này tôi chỉ muốn
báo rõ với mọi người rằng cái công cuộc hồ hởi gọi là Đổi mới đã bắt đầu lộ ra tính dở
dang của nó rồi đấy, nó thậm chí đang bắt đầu bị kéo dừng và lùi lại
bởi chính nhân vật ai cũng tưởng nhầm đã khởi xướng và chủ trì nó. Họ
không dám thay đổi đâu, bởi vì họ sợ, và nỗi sợ đó của họ là thâm căn
cố đế, bởi nó xuất phát từ cái hệ tư tưởng tăm tối mà họ không bao giờ
dám từ bỏ. Xin cho tôi kể câu chuyện hơi lạc đề này một chút, nhưng là
cùng một hệ. Ông Raoul Castro của nước Cuba mà ta vẫn ca ngợi bao lâu,
mãi đến năm 2010, sau bốn năm được ông anh nghỉ hưu trao lại quyền Chủ
nước, mới dám se sẽ cho phép nhân dân tội nghiệp của ông được phép mở
các cửa hàng hớt tóc tư nhân, kèm theo quy định nghiêm khắc mỗi cửa
hàng chỉ được có ba ghế thôi, đến bốn ghế trở lên thì chúng nó sẽ giàu
có, trở thành tư sản và Cuba của ông sẽ mất toi chủ nghĩa xã hội mà
chính ông, cũng đúng như ông đứng đầu đang dắt dẫn dân tộc ta, “ không biết đến cuối thế kỷ này đã có chưa
” !
Sự đời bao giờ cũng đầy nghịch lý. Ở ta đấy thì rõ : chủ nghĩa xã hội,
mà các ông luôn lo sợ đánh mất chưa có, không có, làm sao mà có được
(như một
ông Bộ trưởng đã nói công khai : Có đâu mà đi tìm). Nhưng rồi thời
thế đã đổi khác, những người sợ mất chủ nghĩa xã hội ở ta bây giờ không
còn sợ nữa, dù suốt ngày họ vẫn tụng ra rả về nó. Bởi họ đã có cái
khác, hay hơn nhiều, chủ nghĩa tư bản hoang dã trong đó họ tha hồ câu
kết với đám đại gia mới ngày càng mọc lên nhan nhản và đầy quyền lực
thực, theo rất đúng quy luật, cũng phần đông còn đầy chất hoang dã. Họ
gọi đó là thị trường định hướng xã hội nghĩa. Chữ nghĩa thật phong phú,
bên Tàu thì gọi là chủ nghĩa xã hội mang đặc sắc Trung Quốc…
Nguyễn Minh Châu trong những ngày cuối đời đã dặn tôi, như một lời
trăng trối : “ Cậu phải nhớ điều này
: Rồi đến lúc ‘họ’ sẽ trả thù. Trả thù dữ tợn đấy ”.
Thực tình lúc ấy tôi đã rất quyết và sẵn sàng cho mọi chịu đựng, nhưng
tôi còn chưa thật hiểu hết lời Châu. “ Họ ” là ai ? Tại sao “ trả thù ”
? Mà là “ trả thù dữ tợn ” ?
Bây giờ thì tôi đã hiểu. Chắc rồi tôi phải và xin hứa sẽ cố gắng dành
một chương kha khá cho điều mà Xuân Sách đã gọi và làm rất xuất sắc
bằng tập thơ nổi tiếng Chân dung nhà văn
của anh. Tôi đã bị, hay đúng hơn đã may mắn, được họ chọn làm đối tượng
“ trả thù dữ tợn ”, nên tôi có được biết ít nhiều chân dung của họ, kỳ
thực là vô cùng phức tạp, là sản phẩm tất yếu vừa đáng thương vừa đáng
trách của một thứ chủ nghĩa hồi đầu thế kỷ XX đã là niềm hy vọng và
nguồn ánh sáng đẹp đẽ từng hấp dẫn những trí thức hàng đầu và ưu tú
nhất của nhân loại, những Picasso, Aragon, Neruda, Joliot Curie, Camus,
Sartre…, nhưng rồi đã sa đọa đến thành tai họa lớn nhất từng có cũng
của cái nhân loại ấy. Ở ta quá trình đó lại được trộn lẫn với chủ nghĩa
yêu nước truyền thống và chân chính, với trình độ dân trí, và với bao
nhiêu di sản tinh thần khác nữa. Nó vừa là một thực trạng xã hội chung
kỳ lạ, vừa còn phụ thuộc vào số phận và tính cách riêng của từng cá
nhân… Sẽ không thể có Đổi mới thật sự và triệt để nếu không nhận ra,
tránh trớ cuộc tổng kiểm tra nghiêm khắc này. Bởi vì Đổi mới thật sự
phải là cuộc làm lại xã hội và con người, có thể lấy mốc từ sau 1975.
Một trong những người nhận rõ và kiên trì đòi hỏi đó là anh Tô Hòa Tổng
biên tập báo Sài Gòn giải phóng.
Liên tục trên tờ báo của mình, anh duy trì và ngày càng đẩy mạnh, ráo
riết và sắc sảo hơn một mục đậm : “ Đổi
mới, cuộc chiến đấu còn tiếp diễn ”. Tiếp diễn gì nữa, người ta
đã dừng lại, đã thụt lùi, công khai. Ông NVL đã chủ trương “ giải pháp đỏ ”, đã nói rõ ta với
Pol P ot đều là người cộng sản, hai người cộng sản tại sao lại không
ngồi được với nhau, người ta đã khăn gói sắp sửa đi sang Thành Đô rồi,
mà anh cứ nằng nặc đòi “ còn tiếp
diễn ”. Họ căm anh là phải. Tô Hòa là Tổng biên tập thứ hai bị
cách chức chỉ sau tôi ít lâu. Sau đó thật sự là một cuộc thanh trừng
báo chí. Nhiều Tổng biên tập liên tục bị cách chức từ Bắc chí Nam : Kim
Hạnh ở báo Tuổi trẻ Thành phố
Hồ Chí Minh, Bùi Minh Quốc ở tạp chí Lang
Biang Lâm Đồng, Hoàng Phủ Ngọc Tường ở Cửa Việt Quảng Trị, Tô Nhuận Vỹ ở Sông Hương Huế, Tống Văn Công ở báo
Lao động, v.v…, tính chung đến
mười mấy người, kéo dài mãi cho đến tận năm 1996, hai người cuối cùng
trong danh sách đợt khủng bố đặc biệt này là Thế Thanh và Minh Hiền ở
báo Phụ nữ Thành phố Hồ Chí Minh.
Cùng chung tội nhưng mỗi anh mỗi chị ở mỗi chỗ đều có lý do cụ thể
riêng. Sông Hương của Tô
Nhuận Vỹ ở Huế là nơi tiếp tục con đường của một năm rưỡi báo Văn nghệ một cách ngoan cố và theo
cách vừa dai dẳng vừa khéo léo kiểu Huế của các anh. Kim Hạnh thì trực
tiếp vì một vụ vừa bi vừa hài : Sài Gòn từ thời Tây đã là đất của báo
chí, mỗi anh xích lô buổi sáng đều mua một tờ báo ngồi bắt tréo chân
trên xe đọc, và bọn trẻ con bán báo thì rất thạo cách rao tin hot nhất trên báo hằng ngày. Hôm
ấy từ sáng rất sớm chúng rao thật to khắp các phố : “ Tuổi trẻ mới đây ! Mua ngay kẻo hết ! Cụ
Hồ có vợ đây ! Cụ Hồ có vợ đây ! ”. Xôn xao cả thành phố. Thật
ra chuyện cụ Hồ từng lấy bà Tăng Tuyết Minh bên Tàu báo Nhân dân đã đăng trước rồi, nhưng
Hà Nội kém Sài Gòn, chưa có tục trẻ con rao báo thành thạo và đặc sắc
thế nên người ta đọc xong chỉ tủm tỉm cười với nhau và tặc lưỡi thương
ông Cụ khốn khổ thế… Và thật ra Kim Hạnh bị nạn không chỉ do mỗi vụ
này, đây chỉ là dịp cụ thể để dồn vô số tội của tờ báo lớn nhất Sài Gòn
trị luôn một thể (*). Bùi Minh Quốc ở
Lang Biang thì vì chuyến đi
xuyên Việt ồn ào của các anh. Tô Nhuận Vỹ ở Sông Hương Huế thì lại diễn ra dưới
thời Nguyễn Khoa Điềm đang làm Trưởng Ban Tuyên huấn tỉnh. Có lần tôi
vào Huế gặp anh ở cơ quan Tuyên huấn ấy, nơi ngày xưa chính là Bộ Lại
của ông Phạm Quỳnh, Điềm bảo tôi đối với Sông Hương lẽ ra có thể có
cách xử lý khác, tôi hỏi lại lúc đó anh đang nắm quyền, sao anh không
xử lý cách khác, Điềm không trả lời, v.v… Vậy đó, dân gian đã nói, sông
sâu còn có thể dò…
Hai nàng nữ lưu Thế Thanh và Minh Hiền ở cuối danh sách, lúc này đã rất
cô lập vì các Tổng biên tập đồng phạm đã được thanh toán hết rồi, còn
lại hai nàng bị đông đủ Thường vụ thành phố lớn nhất nước này vây đánh
suốt một năm qua hàng chục cuộc kiểm điểm, cũng vì tội cứ ngoan cố đòi
“ tiếp diễn ” Đổi mới thực. Tôi đặc biệt nhớ
thương Minh Hiền, một người phụ nữ kỳ lạ. Sau khi bị cách chức ở báo Phụ nữ Thành phố, chị nhận làm một
tờ tin của Sở Công thương, chỉ có một trang in hai mặt. Cực kỳ thông
minh, khéo léo, tài năng, chị dần biến nó thành tờ báo Doanh nhân Sài Gòn đường bệ và sang
trọng, hiện đại nhất nước, rồi lại phát triển thành ba, một Doanh nhân Sài Gòn giữa tuần, một Doanh nhân Sài Gòn cuối tuần, một Doanh nhân Sài Gòn cuối tháng, vừa
cùng là một vừa mỗi tờ lại độc đáo, có bản sắc và đầy sức hấp dẫn
riêng, thu hút một số nhà báo cỡ giỏi nhất Sài Gòn chuyên trách từng
tờ, chị là người chịu trách nhiệm chung. Minh Hiền bị ung thư ba lần,
mỗi lần cứ cách nhau đúng bảy năm, chu kỳ thật lạ, anh Nguyễn Chấn Hùng
bác sĩ nổi tiếng về ung thư, người tận tụy chạy chữa suốt hơn hai mươi
năm cho chị bảo mỗi lần là một ung thư mới chứ không phải tái phát. Đến
lần thứ ba thì chị gục hẳn. Tôi nhớ hôm tôi cùng vợ chồng Thế Thanh đưa
chị về nơi an nghỉ cuối cùng, tận Củ Chi quê chị. Một làng thật là quê,
vẫn rất mộc mạc, yên bình, có vườn rộng mát, sum suê cây trái, cảm giác
cũng thân tình và đằm thắm như chính chị. Mộ Minh Hiền chôn ngay trong
vườn, cách sân nhà không tới vài chục mét. Đấy là theo ý muốn của mẹ
chị. Hằng ngày bà cụ ngồi nhai trầu trước hiên vẫn nhìn thấy con. Và
vẫn trò chuyện cùng con gái yêu.
Tôi không muốn dùng từ này nhưng rồi phải nói thôi : Đấy là một người
anh hùng. Một nhà báo tài năng, say mê và can trường nhất của chúng ta.
Tôi thân quý chị như ruột thịt.

Nguyên Ngọc
NGUỒN : Văn Việt, 20.2.2021
(*) Chú thích của Diễn Đàn
: Chuyện “ cụ Hồ có vợ ”, “ tội ” của tổng biên tập Kim Hạnh còn
nặng hơn thế. Cùng thời gian đó, có tin một người dì của bà Tăng Tuyết
Minh lưu lạc từ Quảng Châu đến Việt Nam, ở nhà một người bà con ở Chợ
Lớn. Theo nguồn tin của chúng tôi, Kim Hạnh đã tới nhà hỏi chuyện bà.
Ra về, vừa bước chân ra khỏi cửa, chị bị nhân viên an ninh chặn lại và
đe doạ. Về Tăng Tuyết Minh, bạn đọc có thể tham khảo Diễn Đàn số 121 (tháng 9.2002) : Tăng
Tuyết Minh, người vợ Trung Quốc của Nguyễn Ái Quốc của nhà sử học
Hoàng Tranh.
Các thao tác trên Tài liệu