Nguyễn Thanh Hiện, kẻ hát rong phận người
Nguyễn
Thanh Hiện,
kẻ hát rong phận người
(Giới thiệu
trường ca
"những bài hát rong
đương đại")
Hàn Thuỷ
Mỗi thi pháp
là một bản thể luận.
Diễn từ
kỷ niệm Dante
Toute poétique
est une ontologie.
Pour Dante, 20/04/1965
Saint John Perse
Thi pháp Nguyễn Thanh Hiện không ngoại lệ.
Có thể nói đến "thi pháp" không ? có thể. Vì các bài thơ của Nguyễn Thanh Hiện mang một dấu ấn độc đáo trong thơ Việt đương đại. Tác giả là một người làm thơ đã thành danh, từ lâu thường xuất hiện trên các trang mạng văn chương Da Màu và Tiền Vệ, ngoài ra toàn bộ các tác phẩm rất phong phú của ông được xuất bản trên trang cá nhân http://nguyenthanhhien.com/. Riêng Diễn Đàn cũng đã hân hạnh đăng 20 bài của ông dù bắt đầu muộn, chưa tới ba năm trước. Thơ văn xuôi, thơ không vần hay văn xuôi có nhạc điệu – để nói chung về một loại văn bản mà ta mơ hồ nhận ra nhưng khó gọi tên, vì nó đã phá vỡ biên giới thể loại – ở Việt Nam ; tuy hiện nay vẫn còn ít được sử dụng nhưng không phải không có từ trước. Có lẽ độc giả Việt Nam đã quen thuộc và chấp nhận vẻ đẹp của nó, ít ra là từ những bản dịch thơ Tagore từ những năm 1960 của nhiều người ở cả miền Nam và miền Bắc. Nhưng sáng tác những bài thơ/truyện vừa phức tạp, phong phú, lại vừa tự nhiên, phóng khoáng, như Nguyễn Thanh Hiện – cả về nội dung lẫn hình thức, đến độ mà, thực ra gọi nhiều sáng tác của ông là thơ hay là truyện đều không có gì quan trọng – thì người viết bài này không được biết có ai khác.
Và có nên nói đến một "bản thể luận" không ? dĩ nhiên nên. Trong chừng mực mà thơ, thứ thơ đích thực, không làm gì khác hơn là nói về bản thể. Bởi vì thứ thơ ấy nói về những gì người làm thơ cảm nhận và suy tư ở chốn sâu thẳm nhất trong tâm hồn mình, nơi ngụ cư của bản thể, dù thi sĩ có ý thức về điều đó hay không.
Những dòng thơ như thế, những dòng thơ :
...
mơ hồ, không thể chất, thuần khiết
ngu ngơ,
minh giác thuần khiết
của người tinh khôi chất phác
...
Thơ,
La
Poesía, Pablo Neruda
Hàn Thuỷ dịch
Thì dù nói về điều gì cũng chính là nói về bản thể. Thơ nói về bản thể, cho nên mỗi thi pháp là một bản thể luận.
*
Trường ca những bài hát rong đương đại còn là một cuộc truy tìm bản thể có ý thức tự thân. Để thấy điều này, hãy đọc đoạn mở đầu chương một, gồm một trích dẫn Saint John Perse và một đoạn thơ Nguyễn Thanh Hiện tiếp liền :
…Con
người đặt vào bàn tay cho ta trái
khổ.
Người xa lạ. Người đi
qua. Và đây là tiếng động
vang xa trong sắc đồng cây gỗ. Hoa
hồng và
nhựa, quà tặng của
bài ca. Và tiếng sấm, và tiếng
sáo trong nhà…*
Saint John Perse
Và
một hôm, vào cuối thế kỷ, con
rắn đen bỗng
trườn vào làng
Cù của ta, là nhà người đang
mang
trong mình những nọc độc của
rắn, con rắn đen
vừa trườn vào
làng, vừa nói, và ta, Người
Gieo Hạt,
ta phải lập tức thay đổi
những cách nhìn bấy lâu
về
thế giới…
Và thế là nhân vật chính rời làng Cù để đi chu du, và hát lên bài rong ca đương đại về cuộc chu du ấy. Chu du những đâu, để làm gì, và tại sao hát ?
Và, ngay từ trang đầu tiên của tập thơ, tác giả đã viết :
…Ta
biết là ngươi đang đi về
phía
Mesopotamia, đi về phía
đông
Mediterranean Sea,
biển Giữa, nhưng làm
sao mà
ngươi biết hát?
Thưa,
tự thuở sơ khai loài
người đã
biết hát, hết thảy
những khúc
hát ấy là nằm
trong ký ức
nhân loại, nay chỉ
làm mỗi việc
nhớ lại mà thôi.
Hát, là cất lên tiếng nói uyên nguyên của bản thể, để trả lời câu hỏi ta là ai ? Vẫn là người làng Cù mà không còn là người làng Cù, vì người hát rong vừa hát với ta về làng Cù đã rời đi, để săn tìm chính mình qua những cái nôi của văn hoá con người, ở thời đại chúng đang thành hình, nhiều thiên niên kỷ trước : Sumer, Ai Cập, Hy Lạp, Crete... để hân hoan, để căm giận, để phê phán hay chấp nhận những gì đến với con người, hình thành nên phận người. Kẻ hát rong này hát về phận người chứ không chỉ về một thân phận...
Ta là ta, và ta cũng là tổng thể văn hoá mà ta đã thừa hưởng từ những người khác. Cũng như thế, Nguyễn Thanh Hiện đã sử dụng hình thức kể chuyện "tân sử thi (néo-épopée)" của Dante trong "La divina commedia (Câu chuyện thần thánh)**" : dùng ngôi thứ nhất kể lại một cuộc du hành trong thế giới ảo ; cộng với một bút pháp "thơ văn xuôi" rất gần Saint John Perse... để cất lên tiếng hát của Nguyễn Thanh Hiện, không là của ai khác. Vì, khác với thế giới trong tân sử thi của Dante, một thế giới ảo xây dựng bằng những niềm tin tôn giáo Trung cổ, thế giới trong tân sử thi của Nguyễn Thanh Hiện chỉ ảo trong độ lệch thời gian mà thôi, đó là thế giới thực của lịch sử loài người nhiều thiên niên kỷ trước. Còn vì, bút pháp có thể giống nhau, nhưng thi pháp thì không, bút pháp chỉ là cái vỏ hình thức của thi pháp, thi pháp đích thực phải là sự thống nhất tự nhiên không gượng ép của hình thức và nội dung, nó là bộ phận của ngôn ngữ, cái chuyên chở của cả một nền văn hoá trong trạng thái sinh động của nó.
*
Câu hỏi đặt ra là : mang theo ngôn ngữ của làng Cù, một mình một ngựa lang thang vào những miền đất nguồn cội khác của phận người, khi kẻ hát rong trở về thì dân làng Cù sẽ tiếp nhận tiếng hát như thế nào ? Bởi ngôn ngữ luôn chuyển tải một bản sắc văn hoá; khi trở về, bản sắc văn hoá đã khác, thì ngôn ngữ cũng sẽ phải khác đi. "Sáng tạo – đó là nhiệm vụ được truyền thừa của nhà thơ về ngôn ngữ (Telle est l’obligation filiale du poète envers la langue – créatrice... Pour Dante, Saint John Perse) ".
Truyền thừa và sáng tạo : một sứ mệnh nhiều bất trắc ! vì sáng tạo sẽ chỉ tồn tại khi được chấp nhận để trở thành một phần của truyền thừa tương lai. Vậy hãy để thời gian trả lời, và hãy tham dự vào quá trình này : quá trình một dân tộc chấp nhận hay không nhà thơ như một người nói lên được tiếng nói của mình.
Tôi không có khả năng bàn nhiều hơn về thi pháp Nguyễn Thanh Hiện, cũng không thể tóm tắt những gì người hát rong đương đại này kể lại, chỉ xin mời bạn đọc mở cuốn tân sử thi "những bài hát rong đương đại" dưới đây (bằng cách bấm vào dòng cuối của bài giới thiệu này), để tự mình tiếp nhận, thưởng thức và thẩm định.
Để mời bạn đọc làm quen, xin trích dẫn vài bài trong số hàng trăm bài thơ trong tác phẩm tân sử thi này, mà người hát rong đem về cho chúng ta sau cuộc phiêu bồng trong thế giới ảo của ông, mà chúng ta vốn cũng có phần chia sẻ.
Hàn Thuỷ
và
ai đang
nói
|
và ký ức của một vùng đấttreo giữa tồn tại là một Babylon lộng lẫy thứ kỳ công vang danh mặt đất và lịch sử con người có thể hô to lên hoan hô đức vua Hammurabi hoan hô nhà thiết kế thời đại Hammurabi ( cái cách thiết kế của ông là cả vùng đất giữa hai sông phải thuộc về đất nước Babylon vĩ đại ) và ta cứ tưởng luật Hammurabi là trường tồn trên đá cứ tưởng học thuyết Hammurabi vĩ đại của nước Babylon vĩ đại là chiến thắng được thời gian hãy để cho kẻ đàn áp được khiếu kiện và được xuất hiện trước pho tượng của trẫm ta cứ tưởng những lời lẽ được nói ra từ cửa miệng vua Hammurabi sẽ trở thành chân lý lịch sử nhưng từ cao nguyên Anatolia đã đổ về những chiến xa chạy bằng bánh sắt và đám người man rợ rất xa lạ với từ ngữ văn minh nhà thiết kế vĩ đại Hammurabi là chỉ vĩ đại với những thành phố buổi bình mình trước mắt người anh hùng Murshili của xứ sở Hittite man rợ ông cũng chỉ là để cho tên đạn vĩnh hằng trong giấc mơ con người cũng chỉ như ngọn gió mùa thu thổi qua ký ức loài ong về một bông hoa không tên nào đó nở vào một ngày mùa xuân nào đó ta còn đang băn khoăn về sự biến đổi của thế giới thì vị thần nào đó đã lên tiếng trong ta bảo chớ có nghĩ ngợi bởi đó là thời của suy tàn |
và ta đã có lỗi với người ấycuối cùng thì ta cũng đã trở lại đất nước sông Nile người giữ vườn bấy giờ chẳng phải em mà là một người con trai có đôi mắt màu tro đang vào mùa nho chín có lẽ những người hái nho đang vội vã trong việc hái nho cho kịp trước khi cơn mưa trái mùa đổ xuống nên chẳng ai nhìn thấy ta từ phương đông mới đến ngựa còn đang thở dốc còn ta thì vì nôn nóng gặp lại em nên chẳng thấy mệt
và những kim tự tháp vẫn rủ xuống cuộc trần gian những cái bóng nghìn năm ân oán của chúng
nhưng nàng thì đã đi làm kẻ hầu hạ cho đức vua thần thánh cuối cùng thì người con trai cũng đã nói cho ta nghe về việc em đang là nữ nô lệ của pharaoh thần thánh người con trai có đôi mắt màu tro ta biết là chủ nhân trái tim em từ những mùa nho trước
ta đã cầm lấy tay em người con gái mà ta chỉ biết có mỗi điều là chủ của vườn nho là ta đã có lỗi với em lỗi rất nhiều vì ta chỉ mới biết có mỗi điều em là chủ của vườn nho
chưa tạ tội được cùng em nhưng lại thêm niềm băn khoăn ở trong lòng sao một vì vua của một đất nước lại không thấy là mình có lỗi khi làm việc ấy đối với em? |
Sapho… SaphoTrăng lặn để lộ chòm sao khuya thời khắc cứ trôi và em vẫn chỏng chơ một mình…
chỉ nhớ tên người nữ sĩ tài hoa đảo Lesbos là người ta có thể nhìn thấy một thời,
cơn mưa đổ giữa sáng mùa xuân làm rơi vỡ lá rừng mới nhú trong đêm và lũ phù du lăn ra chết trong khi vui đón cơn gió mới nhưng ở Crete không phải gió mưa mà là những ý nghĩ man rợ kết tụ lại thành sức tàn phá,
dường người đưa tin đã rời khỏi Crete để nói cho loài người trên mặt đất biết trong trí nhớ của Crete vẫn còn nguyên những vườn nho những cô gái hái nho những con thuyền mang dáng vóc hòn đảo xinh đẹp đến tận miền viễn tây của biển Giữa trong trí nhớ Crete vẫn còn nguyên những lời ngợi ca của các vị thần về những người con của Crete đã làm nên những kỳ tích vẫn còn nguyên gương mặt vua Minoan rạng ngời giữa thứ ánh sáng có tên văn minh Minoan,
*** Chàng vẫn đến và vẫn làm như thế còn em vẫn đang đợi mong dịu đi khát vọng từng nung nấu trái tim em
chỉ nhớ đến tên Sapho của đảo Lesbos là người ta đã có thể nhìn thấy một thời,
(...) |
* Chú thích của Diễn Đàn: trong bài thơ Anabase, Nguyễn Viết Thắng dịch, trích theo www.thivien.net
** Một tác phẩm nền tảng của ngôn ngữ và văn học Ý, gồm ba tập : Địa ngục, Vùng chuộc tội, Thiên Đường, mỗi tập dài cỡ truyện Kiều.
Các thao tác trên Tài liệu