Tần ngần ngày tháng
Tần ngần ngày tháng (*)
Lê
Minh Hà
Ngõ nhỏ nhưng đủ cho ba xe cải tiến kềnh càng rơm rạ dàn hàng ngang. Từ đầu ngõ thông thẳng ra mặt đê có bảy nhà, trừ nhà ông Lúa ngoảnh đằng đông, còn tất thảy nằm úp thìa vào nhau ngó đằng xuôi. Chẳng biết vì sao người đất ấy lại định phương hướng như thế. Xuôi: nam. Ngược: bắc. Ra: đông. Còn lại, hướng tây là đằng rừng. Cái này thì trí tuệ của con bé năm sáu tuổi thừa sức hiểu: ra đứng bìa làng phía có cánh đồng lúc chiều muộn là biết, phía tây núi dâng sương tím. Còn những ban trưa thấp thỏm chờ nghe tiếng máy bay tăng tốc, núi vạch một nét gồ ghề thẳng căng nơi chân trời nắng xanh.
Nhà đầu ngõ là nhà ông lang Mạch, gọi theo tên cháu đích tôn của ông. Đấy là người duy nhất trong họ mà bà lúc nào gặp cũng nhất mực thưa gửi anh với chúng em chứ không ông tôi, bác em như thường thấy. Bà cũng không gọi ông là ông lang Mạch như kẻ lạ, hay ông Mạch như trong ngõ trong xóm gọi. Bà gọi thẳng tên ông: Anh Chiều. Thân tình đặc biệt thế nhưng bà ít qua lại, có lần bà còn dặn ông Chiều tính khoảnh, khó gần, qua lại chơi nhởi bên nhà ông Chiều thì phải giữ ý đừng có hò hét ông ấy bực.
Tôi không rõ lắm thực ra nhà
mình với nhà ông lang họ hàng
thân sơ thế nào. Nhưng mà tôi
chơi với hai đứa cháu nội của
ông, thế nên cũng đôi ba bận
lò dò gọi cổng xin đánh chó
hộ để vào chơi.
Ông lang có nhẽ là người
đàn ông duy nhất trong làng mặc
đồ trắng, dù là quần áo
ta. Mùa nước lên mặt sông dập
dềnh củi rều, nước đỏ bầm
màu phù sa từ mạn ngược trôi
về mà quần áo ông mặc vẫn
trắng. Ấy là do bác Mạch gái
con dâu ông giặt xong ngoài bến còn
phải về vò qua với nước đã
lóng phèn rồi hồ lơ. Trong bộ
quần áo trắng giản dị, búi tóc
củ tỏi trắng, chòm râu trắng,
mắt sáng, nghiêm mà không tươi,
ông lang có gì gần gần mà lại
khác dáng vẻ của các bậc lãnh
tụ tiền bối thường đã chết.
Người lớn kính trọng ông vì
ông biết chữ nho và làm thuốc.
Trẻ con kính sợ ông vì đứa
nào chẳng một lần phải ngồi
trước mặt ông để ông khám,
bé thì trị chứng bụng ỏng, lớn
thì đua trâu ngã trẹo cái gì
đấy, bệnh chung thì còn có ghẻ
lở chia nhau. Tôi thì ngán ông vì
ngày nọ qua ngày kia phải uống nước
mã đề, râu ngô với cam thảo
chẳng ra ngọt chẳng ra mặn, kinh cam thảo
đến tận giờ ngay cả trong… ô
mai.
Nhưng công nhận thuốc của ông
lang tốt. Thằng Cảnh bụng giun phưỡn
ra mà chỉ dùng mấy gói thuốc
bột chẳng biết tán từ cái gì
gói trong miếng giấy vở học trò
nhoè nhoẹt mực tím, thế là
bụng xẹp. Thằng gì ở tận xóm
trên bị con gì cắn sưng vù tay
chân phát sốt, mẹ nó dắt xuống
nhà ông lang, ông dặn dò mấy
câu, thế rồi là lá lẩu gì
đó bỏ mồm nhai kĩ đắp vào
chỗ tấy, mấy ngày là hết. Thuốc
ông lang ai cũng bảo là hay, lại rẻ,
có điều đôi khi cũng hơi ghê
ghê. Đấy, như cái vụ nhai lá
đắp vào vết thương, chẳng
biết khỏi nhờ thuốc hay nhờ nước
bọt.
Tôi cũng có lần phải theo bà
nửa đêm gọi cổng nhà ông.
Vì nổi mày đay. Cả người
sưng lên từng cục, ngứa phát rồ
phát dại. Ông chẳng cần khám,
nhìn một cái, rồi thông nõ
điếu, rồi thong thả bảo con dâu ra
chái bếp rút trên mái xuống
mảnh vó bè cũ xì nồng mùi
khói, mùi rong rêu tôm cá nước
non từ đời nảo đời nào. Độc
mảnh vó bè cũ ấy cho vào chảo
rang to lửa, rồi cứ thế xát lên
người, thế mà mày đay biến
sạch.
Làm nghề độ người, lại còn biết chữ nho, ăn mặc thì ra chiều cảnh vẻ thế, nhưng nhà ông lang nghèo. Nhà quê mà chẳng có vườn tược gì, nằm sát bờ đê. Đến đống rơm cũng thiếu chỗ đánh, phải di ra bờ sông sát dốc bến bên dưới lùm tre nhà trồng. Có điều nhìn nhà cửa là biết chủ sống căn cơ. Nếp nhà một gian hai chái lợp ngói ta cách biệt với gian nửa nhà bếp nửa nhà ngang một cái giọt gianh, mảnh sân trị vôi, thẻo đất trước sân trồng mấy bụi đinh hương, cô tòng và mấy gốc chanh, sát ngõ thêm dăm ba bụi chuối, tất cả bao trong bức tường đá ong cao quá đầu người. Đi ngoài ngõ đánh mắt nhìn qua cổng, thường chỉ thấy có con chó vàng chồm hỗm. Con chó nhà ông lang dữ, ai đến cũng phải gọi cổng rõ to chờ người ra mở và đuổi chó. Nhưng người ta ngài ngại khi vào ngõ qua nhà ông lại không hẳn vì con chó, mà vì cái cổng, là thứ ở làng ít nhà xây. Làng không xa Hà Nội lắm, giờ phóng xe máy nhoáng cái đã ra tới Bờ Hồ nếu không tắc đường, nhưng ngày xưa ba chục cây đi bộ rã cẳng cả ngày mới tới. Khác nhiều nơi, khác ngay với làng Đồng Mít kề bên, lối sống ở làng tôi lại có vẻ không cơ chỉ, các nhà cách nhau mảnh vườn, bờ rào duối hay xương rồng, cùng lắm thì xây một bờ tường lửng lửng phía ngoài gọi là có, rất tiện cho trẻ con trèo lên hét thả đỉa ba ba chớ bắt đàn bà phải tội đàn ông rồi nhảy bịch xuống ù à ù ập túm áo nhau. Nhà có cổng như nhà ông lang, lang thang bờ bụi ngõ ngách cũng nhiều nhưng tôi ít thấy.
Ông lang sống cùng gia đình người
con trai cả mà tôi phải gọi là
bác Mạch. Nhưng cả ông và bác
đều được gọi theo tên người
cháu đích tôn hơn tôi phải
tới gần chục tuổi. Sau anh cháu đích
tôn này ông lang còn có hai đứa
cháu nữa là anh Nguyên, rồi đến
cái Oanh. Bác Mạch trai là người
nhà nước, đi bộ đội, về
thăm nhà để được cái
Oanh vào bụng mẹ nó trước khi đi
B, rồi thành liệt sĩ, tôi không
biết mặt. Cái Oanh là chị họ
tôi, nhưng tới cái lần sơ tán
cuối cùng năm bảy mốt bảy hai
(1971- 1972) thì tôi với nó mới thực
chơi với nhau, cứ mày tao chí tớ
sau lưng người lớn thế, là vì
nó bằng tuổi tôi, lên chín, học
sau hai lớp, có ông nội là thầy
lang mà mũi dài xanh le xanh lét như
trẻ lên ba làm tôi cũng khí coi
thường.
Bà kể nhà ông Mạch cũng như
nhà tôi, hồi cải cách ruộng đất
được hạ thành phần. Hỏi nhà
mình thành phần gì, bà bảo
bần nông, lợi lắm cho sự học hành
công tác. Bần nông là nông dân
nghèo, tức cũng phải có ruộng,
nhưng thực nhà tôi chả ruộng vườn
gì trước cải cách ruộng đất
vì là dân tản cư từ Hà
Nội về. Sở dĩ sau này có nhà
ở làng là nhờ ông tôi. Ông
tôi là liệt sĩ nhưng trước
khi được công nhận thì lại
bị quy là việt gian bị ta ám sát,
thế là bà với các cô các
chú sau cải cách vẫn bị trói
chân mãi ở làng không trở lại
Hà Nội được, mãi tới lúc
ông được minh oan nhà mới được
hạ từ việt gian xuống bần nông,
nhờ thế được chia thẻo đất
xây cái nhà cho bà dắt díu
bầy cháu về sơ tán trong những
cuộc chiến tranh đánh phá một
hai ba của Mỹ.
Nhà ông lang cũng được hạ
thành phần, nhưng không được
lợi như nhà tôi vì mất hết
ruộng vườn trong cải cách. Đôi
ba khi được buổi nghỉ chợ vãn
việc đồng, mấy bà trong làng tạt
vào ngồi ăn trầu với bà tôi,
bác Mạch gái nghe tiếng người
xao xác cách vườn cũng theo sang. Lúc
bác về, các bà bàn bàn tán
tán. Một bà bảo nhà ông lang
ấy thế mà giỏi, có chữ có
nghĩa có khác, mất hết mà gây
dựng lại cho con cháu đâu vào
đấy, chẳng ruộng vườn nhà
cửa như xưa nhưng con cái ai cũng có
ăn có học thoát li được cả.
Một bà khác lại bảo may lúc đó
bền gan chờ được tới ngày hạ
thành phần không quẫn mà treo cổ
như ông bố thầy Quyền thầy hiệu
trưởng trường cấp 1 của tôi.
Bà đưa ngón tay vén nước
cốt trầu ở khoé miệng, gật gù
ông ấy có chữ, sống có cốt
cách, nhà có gia phong. Lần đầu
tiên tôi nghe từ „gia phong“, chẳng
hiểu gì, liên tưởng tới lời
bà dặn khi họ hẹ trước cổng
nhà cái Oanh mắt la mày liếc rủ
nó đi chơi, hiểu luôn gia phong là
tính nhất khoảnh, là riêng, là
nghiêm. Thế thì đúng với ông
lang rồi. Mặc đồ trắng, ra đường
cầm quạt, nhà ngay dốc bến nhưng
chẳng bao giờ ông cởi trần đi tắm
sông rồi thung dung bưng bòi về như
các ông liền ông trong xóm. Nhà
ông kín cổng cao tường. Dù thế
trẻ con chơi khăng chơi đáo trong
ngõ cũng phải lần vào trước
ngõ nhỏ nhà tôi hò hét, đố
dám í ới trước cổng nhà
ông.
Bác Mạch gái con dâu ông ngược
lại tính xởi lởi dễ gần. Nhưng
bác lo việc đồng áng, bảo ban ba
đứa con và phục dịch ông bố
chồng xong thì hàng ngày cũng chả
còn được mấy lúc ra đầu
ngõ góp lời với người cùng
xóm. Bác đẹp gái, da trắng
mỏng, mặt thanh mũi thon, mắt sáng,
trán nhìn rất thoát. Khác với
nhiều người đàn bà cùng
tuổi ở làng, bác Mạch không cạo
răng trắng, vẫn vấn khăn và mặc
yếm với áo cánh. Cái yếm trắng
hồ lơ hờ hững trên bộ ngực
ba con mà vẫn đầy đầy. Áo
khách khoác ngoài bờ vai mỏng. Vành
khăn quấn tóc chặt chiệm luôn
luôn là màu trắng như bà tôi,
luôn luôn là khăn để tang ai đó
trong họ mạc. Hồi viết truyện Châu
Long, trong trí tôi không hiểu sao toàn
hiện hình ảnh bác, và Châu
Long của tôi có dáng vẻ thanh thoát,
mắt nhìn xa vắng của bác Mạch
tôi. Sau này già dặn hơn, tôi để
ý cách chọn dâu con của những
nhà thế giá làng quê Việt Nam
độ trước có cái gì đó
là lạ. Hầu như ít thấy cô
con dâu nào của các nhà đó
có dáng vẻ thực sự quê mùa,
dù vẫn rất mộc mạc và dù
bữa cơm hàng ngày thì cũng hạt
gạo hạt ngô củ khoai củ sắn.
Hồi ấy cái Oanh với tôi cùng
chín tuổi, có nghĩa là bố nó
con giai cả của ông lang Mạch đã
không về nhà phải tới mười
năm, còn bác hi sinh từ bao giờ thì
cả nhà cũng chỉ biết tin vào
giấy báo tử. Cái Oanh không nhớ
bố vì có biết mặt bố đâu
mà nhớ. Nhưng anh cả nó thì
dường như ý thức sâu sắc
được sự mình là cháu đích
tôn rồi sẽ phải gồng gánh việc
nhà việc họ thay bố. Vì thế mà
tôi ngại gần anh y như ngại gần
ông lang, trong thâm tâm còn hơi hơi
ghét ông anh họ hơn có mấy tuổi
mà mặt mũi lừ lừ ra vẻ. Tôi
chỉ thích chơi với anh Nguyên vì
anh hay nhường tôi thắng lúc chơi
khăng, lại cũng sẵn lòng chặt
nguyên tầu lá chuối, rọc lá,
lấy dao vát bẹ làm khầu súng
bắn rốp rốp cho tôi đuổi gà.
Tôi cũng thích chơi với cái Oanh
mũi dãi thè lè nhưng thảo tính,
toàn dúi cho tôi khoai môn mẹ nó
vừa luộc, và vào mùa phơi sắn,
biết ý tôi, nó sẵn lòng nhốt
ngay con chó Vàng.
Thế là tôi yên tâm vào sân
nhà nó, chào ông lang thật to rồi
ngồi xệp xuống bên mẹ nó, chờ
bác cho thay chỗ. Xe cải tiến sắn từ
hôm trước bác Mạch với anh con cả
đã người đẩy người kéo
từ phía núi về làng, phải thái
phơi cho kịp nắng không thì chạy
nhựa. Mùa nào thức nấy, trong làng
nhà nào cũng bấn bíu việc làm
sao cho có đủ thức ghế thêm vào
nồi cơm, chẳng cứ ngày giáp hạt.
Mùa ngô thì bẻ ngô rồi tối
tối mỗi người một cái dùi
bé xúm vào tẽ hạt, mùa khoai
thì rỡ khoai. Mùa sắn, làng không
trồng sắn thì rủ nhau vào các
làng trong chân núi mua từng xe cải
tiến về, thái lát đem phơi kĩ
rồi cho vào ang để dành. Nhà
tôi không ăn cơm ghế ngô khoai sắn,
nhưng tôi lê la các nhà thử cả
rồi, sợ nhất là cơm ghế khoai khô
mốc, no lâu nhất là cơm ghế ngô
phơi khô rồi đem xay giập, ngon nhất
là cơm ghế sắn khô được
nắng.
Nhà ông lang thái sắn khác mọi
nhà, không kê củ sắn lên cái
đòn gỗ rồi dao bầu lia tơi tới.
Ông lang làm thuốc nên có khác,
giữa sân ông cho đặt con dao cầu.
Không biết có phải là con dao cầu
ông dùng thái thuốc không hay là
một con dao khác làm theo kiểu dáng
ấy. Thái sắn bằng dao cầu cực
thích, chỉ cần đút củ sắn
vào rồi cầm cần dao phập xuống,
đều tăm tắp, lại nhanh, và cái
chính là không sợ đứt tay. Thái
được dăm ba củ là thể nào
cũng được bác Mạch gái bồi
dưỡng cho khúc sắn bác vừa vào
bếp đặt nồi luộc. Tôi trẻ
con, biết gì là đẹp đâu.
Nhưng tôi thích ngắm bác lúc
nghiêng người chắt nước vần
nồi sắn. Cái lưng mỏng, dáng
ngồi nghiêng, sợi tóc tuột khỏi
vành khăn trắng, má hồng rực, có
lúc dính muội gio nhem nhuốc nom rất
buồn cười.
Thì lúc đó bác Mạch gái
cũng chỉ ba sáu ba bảy tuổi, bằng
tuổi những người đàn bà sẵn
sàng chào tôi là cô xưng cháu
bây giờ. Ông lang ngoài sáu mươi,
chỉ dăm ba năm nữa rồi chúng tôi
cũng tới tuổi ấy. Một ông bố
chồng góa vợ từ lúc hơn ba mươi
sau khi con gái út chào đời sống
với đứa con dâu goá chồng và
bầy cháu, ngày chiến tranh thế cũng
thường.
Bà bảo ông Chiều ông
ấy giỏi, vợ chết sớm, nhà cửa
ruộng vườn bị mang ra chia quả thực
hết, mà một tay gây dựng lại,
nuôi con ăn học đến đũa đến
đầu. Biết chữ nho, ông lang đặt
tên con cháu ai cũng đẹp, trừ cô
con gái út lọt lòng mẹ ra thì
mẹ chết, trẻ thôi nhưng theo tôn
ti trật tự tôi phải gọi là bác
thì mang cái tên chắc để dễ
nuôi là Cóc.
Ngay cả bác Cóc,
tên xấu nhưng mà đường đời
cũng đẹp. Bác Cóc là cô
giáo ở một trường cấp hai không
xa làng, xã khác nhưng xuôi về
phía Phù Lưu Tế một đỗi
đường đê là tới. Từ khi
lấy chồng có con, hai thằng con trai đẹp
như vẽ, nhất là thằng Thọ, với
cái đầu tròn như quả bí
ngô non và đôi mắt to thật là
to thì bác Cóc ở luôn nhà tập
thể giáo viên của trường. Thỉnh
thoảng chồng về, bác mới cùng
chồng đưa con về thăm bố.
Chồng
bác Cóc tôi vẫn nhớ, tên là
Dũng, dáng vâm váp, lúc nào
cũng tươi tỉnh, là đại úy
đội mũ mềm và đeo súng lục.
Chẳng mấy khi về nhà vợ mà bác
Dũng quen cả xóm, về là kiệu
thằng Thọ trên vai đi rong thăm hỏi
bà con.
Đùng cái, nhà ông
Mạch thường khi lặng lẽ tối hôm
đó y như nhà có đám. Nhưng
không chỉ có tiếng khóc. Còn
lẫn tiếng chửi tiếng gào. Lần
đầu tiên tôi thấy cổng nhà
ông không đóng, người tự
động ra vào. Tôi cũng chen vào.
Giời
ơi, hóa ra thằng đại úy chồng
cái Cóc là kẻ cướp trốn
tù. Nó vừa gây chuyện lừa xin
việc cho cháu ngoại ông lang con gái
đầu nhà cái Thảo ông gả
cho người ở ngoài Mai. Nó cướp
hết, tiền, xe đạp, nó còn làm
hại…
Người đứng người ngồi từ
cổng vào sân xôn xao nhao nhác. Bác
Cóc ngồi rũ rượi bên cô cháu
gái run bần bật ở xó bếp. Thằng
cu Thọ đôi mắt to ơi là to đầy
vẻ hãi hùng ngồi ôm thằng em
trên phản bên cạnh ông ngoại,
nhìn hết người nọ đến người
kia. Có một bà xỉa xói nó là
con kẻ cướp. Lần đầu tiên tôi
thấy ông lang không còn vẻ oai nghiêm.
Ông luống cuống ôm hai thằng cháu,
thì thào: „Thôi các ông các
bà. Trẻ con không làm nên tội.“
Rồi xóm nhỏ lại yên ắng.
Nhà ông lang lại lặng lẽ. Nhưng
tôi không còn thích vào nhà
ông sau hôm ấy. Có lần bác Mạch
gái qua nhà, nói là xin bà khẩu
giầu với nẹn rau ngót về nấu bát
canh bữa trưa cho ông nội bọn trẻ.
Lúc đưa cho bác rổ rau mới hái,
bà tần ngần hỏi gì đó và
bác trả lời:
- Theo giấy báo tử
thì bốn năm rồi thím ạ. Thời
buổi này, người chết thì phải
làm giỗ mà yên lòng sống tiếp
chứ cũng có biết ngày giỗ thật
là ngày nào đâu.
Bà với
bác đi vào nhà. Tôi vào buồng
lục đãy lấy khúc vỏ quạch
vừa mua phiên chợ trước đưa
bà, còn kịp hóng:
- Mày còm quá nhà mẹ Mạch ạ.
Còn ba đứa con, phải giữ lấy thân
mình. Ngày xưa… thím…
Bây giờ thì tôi đã có
thể tự điền vào những khoảng
trắng không hóng được từ lời
bà. Bà tôi và bác Mạch gái,
hai người đàn bà của hai thời,
chung một nỗi cơ cực giống nhau, góa
bụa từ lúc chỉ vừa qua tuổi ba
mươi và chồng đều là liệt
sĩ. Nhưng lúc đó thì tôi
chỉ nghe tiếng bác Mạch:
- Thím
bảo cháu biết làm thế nào. Từ
ngày nhà cháu hi sinh, ông nhà cháu
ít ngủ lắm. Sau đận cô Cóc
gặp chuyện chẳng lành, nhiều đêm
ông cháu cứ ngồi chong chong trên
phản. Cháu phải bảo thằng Nguyên
ra gian giữa ngủ với ông, bắt ông
nằm. Chẳng biết ông có chợp được
lúc nào không, nhưng cháu khó
ngủ mãi thành mất ngủ.
Cái Oanh, có lần tranh được
với tôi cái cột đá xanh chôn
đầu ngõ, trèo lên ngồi ung dung
rồi kể giờ nó xuống bếp nằm
với mẹ nó. Không có mẹ nó
không ngủ được, mà mẹ thì
cứ loay hoay cả đêm dưới bếp,
lúc cám bã, lúc vá áo quần
cho chúng nó, lúc xay bột, có khi
lại bắc nồi đun nước chán
rồi chẳng nấu gì. Nó bò xuống
bếp kéo rơm nằm ôm lưng mẹ,
thế là mẹ nó phải đặt cái
chõng hai mẹ con nằm ôm nhau.
Ngôi nhà xưa của bà tôi
đã bán lâu lắm rồi, từ sau
khi chúng tôi trở về Hà Nội đi
học lại. Bà tôi mất sau đó
có dăm năm. Bây giờ, mỗi bận
về nước, tôi chỉ đi thăm mộ
bà mà chưa một lần nhảo qua xóm
nhỏ từng ở những năm tao loạn.
Làng giờ đổi khác. Vườn
tược biến hết. Gần như không
còn những nếp nhà một gian ba gian
hai chái nhìn đã thấy bao nhiêu
là tần tảo và cơ chỉ của
một thời, thay vào đó là những
ngôi nhà cao tầng, nhiều nhà xây
y như biệt thự nhưng vẫn có thể
giày dép hay chân đất đi vào,
Hà Nội còn phải chạy theo mệt.
Ờ mà làng tôi cũng thành Hà
Nội mất rồi.
Sông thì như không chảy nữa.
Bờ đê tơ hơ dưới nắng,
không bóng tre pheo. Tôi không biết
nhà ông lang giờ còn ai ở đó.
Ông lang đã thành ma từ lâu. Bác
Mạch gái nếu còn sống cũng phải
tám mươi. Anh Mạch, anh Nguyên, cái
Oanh… nghe nói…
Và khi nghe nói,
trong lòng tôi thường dậy lên một
cơn đau, nhẹ như một niềm xa xót.
Những ngày tháng gieo neo ấy lăn lóc
với đời chán ra rồi lại thấy
như là một bình yên!
(*) Rút trong tập "Người làng", chưa xuất bản. Xem kỳ trước: Đắng như là vắng.
Diễn Đàn trân trọng cảm ơn tác giả và hoạ sĩ Đỗ Phấn đã gửi tặng bài và tranh minh hoạ.
Berlin 17.11. 2016
Lê Minh Hà
Các thao tác trên Tài liệu