Trao đổi tiếp về chuyện Biển Đông
Trao đổi tiếp về chuyện Biển Đông
Vũ Ngọc Hoàng
Sau bài viết Trao đổi nhanh về chuyện Biển Đông đầu tháng 9 vừa qua, tôi đã nhận được nhiều ý kiến bình luận, phản biện. Trước hết, tôi rất cảm ơn quý anh chị và bạn đọc. Nhân đây, xin được trao đổi tiếp về chuyện Biển Đông xung quanh các ý kiến phản biện đó.
1.
Có ý kiến cho rằng, hiện tại xét về tương quan lực lượng thì Trung Quốc
mạnh hơn ta nhiều, ta không đủ sức chống lại họ, mà cũng không thể bài
Hoa, kiện là có cớ để họ lấn tới, tấn công ta. Tôi xin thưa, ta đâu có
định chống Trung Quốc. Đây chỉ là quyền tự vệ chính đáng bằng giải pháp
hòa bình của một dân tộc văn hiến, có chủ quyền và biết tự trọng, chứ
đi chống Trung Quốc để làm gì. Ta chỉ muốn sống hòa hiếu, hữu hảo thật
lòng với láng giềng, trong đó có Trung Quốc, và bạn bè quốc tế năm
châu. Bao đời nay Việt Nam vốn là một dân tộc yêu hòa bình và đường lối
ngày nay là muốn làm bạn với tất cả các quốc gia trên thế giới. Ta cũng
không hề có ý định bài Hoa, mà bài làm sao được khi hai dân tộc sống
gần cạnh nhau đã do thiên định, nhân dân hai bên biên giới sáng sớm nào
cũng nghe tiếng gà gáy của nhau, và Việt Nam cũng rất cần có thị trường
lớn bên cạnh để cùng nhau hợp tác phát triển trên tinh thần bình đẳng
và tôn trọng lẫn nhau. Còn việc ta phải kiện Trung Quốc như tôi đã nói
là vì họ ép ta phải làm thế, ta càng nhân nhượng họ càng lấn tới, họ đã
xúc phạm ta, nên không có cách khác, không thể để chân lý bị chà đạp,
chủ quyền quốc gia và các quyền lợi chính đáng của dân tộc bị cường bạo
cưỡng chiếm. Không kiện là hữu khuynh, coi chừng thỏa hiệp vô nguyên
tắc. Kiện để mở đường, để làm cơ sở cho các đấu tranh tiếp theo. Nếu
chỉ đấu tranh song phương thì lâu nay đã làm, và không có kết quả, dễ
bề cho họ ép ta. Cần phải đa phương, phải quốc tế hóa vấn đề Biển Đông,
dựa vào luật pháp và cộng đồng quốc tế để đấu tranh. Có ý kiến bảo nên
bắt đầu bằng việc đưa vấn đề Trung Quốc giành biển của Việt Nam ra Hội
Đồng Bảo An Liên Hiệp Quốc, đồng thời tiếp tục kiện ra quốc tế. Kiện về
chuyện Bãi Tư Chính và Hoàng Sa, Trường Sa nữa, từng vụ cho từng vấn
đề. Tôi nghĩ thế là rất cần thiết, đáng lẽ phải làm sớm rồi, còn kiện
cụ thể những gì và như thế nào thì chắc chắn các nhà nghiên cứu luật
pháp sẽ thông thái hơn tôi. Việc khởi kiện cũng nên khẩn trương làm
ngay, càng sớm càng tốt, vì họ đang ngày càng lấn tới, để càng lâu càng
khó, và hành động thực tế của họ đã vượt qua ranh giới đỏ rồi. Gần đây,
họ còn tuyên bố một cách ngạo mạn rằng khu vực bãi Tư Chính là của họ,
rồi họ kêu gọi Việt Nam đối thoại hòa bình, mặt khác cùng lúc họ tiếp
tục cho nhiều tàu lớn lấn sâu hơn vào phía bờ biển của Việt Nam, chỉ
còn cách đất liền một đoạn ngắn. Cần phải rất cảnh giác với các chiêu
bài của Trung Quốc. Đối thoại là đối thoại vấn đề gì phải cho rõ. Bãi
Tư Chính đang yên ổn là của Việt Nam, luật pháp quốc tế cũng đã rành
rành như vậy, nhưng họ đang chuyển sang vùng tranh chấp, coi chừng ta
lại mắc mưu. Họ đi những “nước cờ” rất bài bản với âm mưu thâm sâu, ta
không thể đối phó từng nước một trong thế bị động và lúng túng. Và cần
phải chống “nhóm lợi ích” thân Tàu, coi chừng chúng nó bán rẻ Tổ Quốc
ta cho Phương Bắc.
Về chuyện tương quan lực lượng thì từ ngày xưa đã thế, Trung Quốc lúc
nào cũng to lớn hơn Việt Nam. Mười mấy lần họ xâm lăng nước ta trước
đây xét về tương quan lực lượng vật chất họ đều mạnh hơn ta. Trong các
cuộc kháng chiến vệ quốc trước đây, Việt Nam thậm chí đã phải bắt đầu
bằng gậy tầm vông. Tương quan lực lượng ngày ấy còn chênh lệch hơn
nhiều so với bây giờ, thế mà cha ông ta đã dám hành động dũng cảm, rất
đáng tự hào và kính trọng. Từ xưa đến nay Việt Nam chưa bao giờ gây
chuyện với Trung Quốc, mà chỉ có việc Trung Quốc luôn ức hiếp và nhiều
lần xâm lược Việt Nam. Họ luôn có âm mưu thâm hiểm muốn biến nước ta
thành thuộc quốc chư hầu của họ. Chẳng lẽ vì tương quan lực lượng của
ta yếu hơn mà đất nước và dân tộc này phải cúi đầu nhịn nhục, không có
quyền ngẩng lên để đấu tranh tự vệ. Và ngày nay vấn đề tương quan lực
lượng cần được hiểu theo tư duy mở, trong đó có yếu tố con người,
truyền thống văn hóa, chân lý, bạn bè và luật pháp quốc tế nữa.
Còn ý kiến nói rằng nếu ta chống lại họ thì tạo cớ cho Trung Quốc tấn
công lấy biển của ta ? Vì sao lại xem việc thực hiện quyền tự vệ chính
đáng của Việt Nam là tạo cớ cho kẻ xâm lăng thực hiện âm mưu. Quả là
một kiểu tư duy không thể hiểu nổi. Đó chỉ là kiểu ngụy biện cho một sự
nhu nhược về tinh thần và bản lĩnh. Thực ra họ chẳng cần cái cớ ấy đâu.
Chính họ đã tạo ra rồi cái cớ hết sức vô lý khi nói vùng biển của Việt
Nam là của họ, còn Việt Nam từ chủ nhân họ vu cáo là kẻ xâm phạm đấy
thôi.
2.
Có ý kiến giải thích rằng Trung Quốc đã làm được gì ở đó đâu, còn VN ta đã đặt được dàn khoan ở Bãi Tư Chính rồi, đất nước vẫn hòa bình yên ổn, thế mới là sách hay và khôn khéo, có chuyện gì đâu mà phải la ầm lên. Nghe nói vậy càng thấy buồn lo. Ta đặt dàn khoan trên phần lãnh hải (*) thuộc chủ quyền của đất nước ta, sao lại đi so sánh với việc Trung Quốc ngang nhiên tự do đi vào “vườn nhà” của ta. Họ còn nói đó là vùng chủ quyền của họ và yêu cầu ta phải rút đi. Thật là một sự xúc phạm ! Thực tế họ đã xâm lăng ta mấy tháng nay rồi và đang biến một vùng biển rộng lớn của ta thành của họ, thế mà lại nói họ chưa làm được gì. Sao lại phải biện minh cho hành vi ngang ngược của kẻ xâm lăng ? Tại sao lại phải ru ngủ nhân dân ? Biện minh theo kiểu đó thì vô tình hoặc cố ý làm lợi cho kẻ xâm lăng.
Lần này coi ra họ rất quyết liệt hành động. Việc chiếm được biển của
Việt Nam có ý nghĩa lớn lao đối với họ, còn không chiếm được thì chiến
lược về giấc mộng Trung Hoa có thể bị phá sản. Và họ nhận thấy lúc này
về phía Việt Nam có những yếu tố thuận lợi cho việc thực hiện âm mưu
của họ. Trung Quốc đang sử dụng kế sách “không cần đánh mà vẫn thắng”,
tức là không cần nổ súng vẫn lấy được biển, đó là thượng sách. Họ vừa
muốn chiếm biển của ta, vừa không muốn “mất” Việt Nam, tức là vẫn giữ
được một VN nằm trong tầm kiểm soát của họ. Vì vậy, tốt nhất là làm sao
lấy được biển mà VN ít phản đối hoặc là chỉ phản đối chiếu lệ. Nhưng
đồng thời họ cũng hăm dọa bằng tàu lớn súng nhiều và sẵn sàng động
binh. Còn diễn biến thực tế trên chiến trường mấy tháng nay thì rõ ràng
họ đang tiến và ta đang thua từng bước. Họ tiến vào ngày càng sâu hơn,
gần đất liền hơn. Từ chỗ họ nói Tư Chính là vùng tranh chấp rồi sau đó
họ nhanh chóng chuyển sang nói là vùng biển của họ và vu cáo cho Việt
Nam cố tình lấn chiếm, yêu cầu Việt Nam phải rút đi, rồi bảo Việt Nam
phải đối thoại để cùng khai thác...
Tình hình thật nghiêm trọng nhưng nhiều người vẫn tỏ ra như chưa có gì
nghiêm trọng. Mấy tháng nay họ đã vào ra vùng biển của ta nhiều lần,
như đi chợ, như ao nhà của họ. Có đợt cả tháng sau ta mới lên tiếng.
Đẩy đuổi thì xem ra không đủ sức làm lâu dài. Lên án cũng không ra lên
án. Đẩy mạnh tuyên truyền cho nhân dân VN và thế giới biết bản chất của
vấn đề cũng không làm. La làng lên cho mọi người biết là kẻ cướp đã đột
nhập nhà tôi cũng không. Kiện cũng không chịu kiện. Tăng thêm đối tác
chiến lược mới cũng không. Hợp tác quân sự mới cũng không thấy…. Nói
chung dân chúng không hiểu thái độ và đối sách của lãnh đạo nước ta ra
sao. Mà xem ra đây cũng không phải là sự bình tĩnh của một cao thủ có
kế sâu nên nhiều người đã bảo “chẳng hiểu vì sao mà phải thế”.
3.
Có người phê bình rằng các ý kiến từ nhân dân không hiểu hết tình hình
nên nhận định, đề xuất không phù hợp. Thậm chí có ý kiến còn phê phán
chì chiết những tiếng nói từ những người yêu nước. Trong nhân dân, có
người không đủ thông tin như lãnh đạo cũng là chuyện bình thường, nhưng
có thể họ lại hiểu lòng dân hơn lãnh đạo. Ý kiến nào không hiểu tình
hình mà nói không đúng thì nên chỉ ra, nói lại xem thử thế nào là đúng.
Nhưng riêng việc mấy tháng nay Trung Quốc liên tục (gần như thường
xuyên) xâm phạm biển của Việt Nam một cách trắng trợn, họ tuyên bố đó
là biển của họ, Việt Nam thì không la, không kiện, không nói rõ cho
nhân dân biết, đặc biệt lãnh đạo đất nước không lên tiếng mạnh mẽ rõ
ràng quan điểm…, đó có phải là sự thật hay dân nói sai ? Thực tế mấy
tháng nay quốc dân đồng bào không được các cơ quan hữu trách hoặc báo
chí chính thống thông tin kịp thời và đầy đủ cho biết tình hình Biển
Đông của Việt Nam đang bị xâm phạm. Cứ làm như mọi việc vẫn bình
thường, không có chuyện gì xảy ra, thậm chí kẻ xâm lăng vẫn còn được
coi là “đối tác chiến lược toàn diện” quan trọng nhất của VN. Tại sao
không thông báo kịp thời mọi việc cho nhân dân biết rõ tình hình ? Phải
chăng sự quan tâm của nhân dân đối với chủ quyền của đất nước là không
cần thiết, đó không phải là việc của nhân dân ? Tất nhiên gần đây báo
chí chính thống ít nhiều cũng đã có nói đến, dù chỉ ở mức độ hết sức
khiêm tốn. Hãy nhớ rằng, từ lâu Trung Quốc đã tác động nhiều thông tin
ra thế giới và trong nước để chuẩn bị dư luận, và hiện nay họ vẫn đang
ngày đêm tác động thông tin để nhiễu loạn phía Việt Nam. Còn phía ta,
cần xem lại ta đang ứng xử ra sao đối với tình hình đất nước rất nghiêm
trọng vì chủ quyền của quốc gia đang bị xâm phạm ? Trong số những người
dân yêu nước có thể người này người khác có lúc nóng nảy, nói sai điểm
này điểm khác, đụng chạm…thì nói lại, uốn nắn. Nhưng phải biết quý
trọng tấm lòng của họ, nuôi dưỡng, hun đúc và tích góp chí khí của dân
tộc để mà giữ nước. Không nên, không được làm điều gì gây tổn thương
cho lòng yêu nước của nhân dân.
4.
Một số ý kiến phản biện rằng, nói đến liên minh quân sự là nguy hiểm,
dễ gây ra chiến tranh. Mà họ cũng đã nổ súng đâu, đã có chiến tranh đâu
mà nói đến liên minh chiến đấu. Lần trước tôi cũng đã nói không liên
minh quân sự với ai để chống nước khác là quan điểm đúng đắn. Việc đó
cũng là thể hiện tinh thần của một dân tộc yêu hòa bình, ghét hiếu
chiến. Nhưng trong tình thế đất nước bị xâm lăng thì cần liên minh để
bảo vệ chủ quyền. Chẳng lẽ thà chịu mất nước chứ nhất định không được
liên minh chiến đấu để bảo vệ ? Như ta đã biết và thường ca ngợi chiến
thắng của phe Đồng Minh trong đại chiến thế giới II – đó chính là một
liên minh chiến đấu vì hòa bình. Và khi ấy Việt Nam cũng đã đứng về phe
Đồng Minh. Việt Nam và Lào đã nhiều lần cùng liên minh chiến đấu mà đến
nay ta vẫn luôn ca ngợi liên minh ấy. Sau năm 1975 Việt Nam và Liên Xô
cũng có lúc như vậy. Những lúc ấy, đó là sự cần thiết của tinh thần tự
vệ chính đáng. Còn nói họ đã làm gì đâu mà ta lại tính đến việc liên
minh chiến đấu ? Sao lại biện minh là họ chưa làm gì ? Họ đã chính thức
xâm chiếm lãnh hải tức là một phần Tổ Quốc của chúng ta bị xâm lăng
rồi, chứ sao lại nói “họ đã làm gì đâu”. Chẳng lẽ đợi đến khi “chậm mất
rồi”, “thua mất rồi” thì mới bàn đến việc liên minh chiến đấu để tự vệ
? Chủ động chuẩn bị tốt các biện pháp bảo vệ đất nước cũng là một cách
phòng ngừa để chiến tranh không xảy ra. Còn nếu cuối cùng nó vẫn xảy ra
thì đó là việc do đối phương muốn vậy, ngoài ý muốn của ta. Trong
trường hợp ấy chúng ta sẽ chủ động hơn.
Trước đây có lúc Việt Nam đã ủng hộ và tham gia phong trào không liên
kết. Gần đây cũng có ý kiến bảo chỉ cần nói Việt Nam không liên kết với
bất cứ nước nào, bên nào là đủ rồi. Tôi cũng nhất trí với ý kiến ấy,
nhưng đó là nói về đường lối đối ngoại đối với các vấn đề khác không
liên quan đến chủ quyền của Việt Nam trong quan hệ quốc tế (ví dụ trong
chiến tranh thương mại Mỹ-Trung hoặc các cuộc xung đột trên thế giới và
khu vực). Riêng đối với việc bảo vệ chủ quyền quốc gia của Việt Nam thì
tôi giữ ý kiến sẳn sàng liên minh với bất kỳ nước nào ủng hộ chủ quyền
của ta để tự vệ chính đáng. Tất nhiên là không ỷ lại dựa dẫm ai và hành
động liên minh đó trên thực tế chỉ thực hiện khi có xung đột. Nhưng về
nhận thức, quan điểm thì phải xác định trước, chứ đợi đến lúc xảy ra
xung đột rồi mới triệu tập họp lại để bàn thì quá trễ. Trong thời đại
công nghệ ngày nay, những nước như Việt Nam ta chưa đủ điều kiện về
công nghệ thì càng phải có liên minh mới sử dụng được hệ điều hành từ
vệ tinh của nước này hay nước khác.
5.
Có người hỏi lại “nếu liên minh chiến đấu thì liên minh với ai và như
thế nào ?”. Đó là công việc của các nhà quân sự, họ sẽ thông thái hơn
chúng ta, và tôi tin rằng họ sẽ không bó tay để đưa lưng cho người ta
bắn và ngồi nhìn chủ quyền quốc gia thiêng liêng bị người khác cưỡng
chiếm và xúc phạm. Ngày nay, các vấn đề chính trị, quân sự trong đối
ngoại nhìn chung thường có gắn với lợi ích kinh tế. Phần biển đông
thuộc nước ta đang chứa rất nhiều khoáng sản có giá trị lớn. Cần đẩy
mạnh khai thác để có nguồn tài chính cho hiện đại hóa đất nước, không
cần phải “để dành” mà kẻ tham dòm ngó và âm mưu cướp bóc. Tất nhiên
chuyện Biển Đông không chỉ là tài nguyên mà còn vị thế chiến lược về
địa kinh tế và địa chính trị mới quan trọng hơn nhiều. Ta có thể mở cửa
rộng hơn với chính sách thuế phù hợp và thủ tục pháp lý thuận tiện để
khuyến khích các đối tác từ các nước tôn trọng chủ quyền của VN vào hợp
tác đầu tư khai thác theo luật pháp của Việt Nam và đôi bên cùng có lợi
(ví dụ như Mỹ, Anh, Pháp, Đức, Nhật, Ấn Độ, Nga, Ôxtrailia…). Đồng thời
ta đề xuất phương án cùng nhau liên minh bảo vệ vùng biển này để bảo
đảm cho công việc đầu tư khai thác được an toàn và an ninh. Còn Trung
Quốc, khi nào họ thay đổi quan điểm, tôn trọng chủ quyền biển đảo của
Việt Nam thì ta hoan nghênh và cũng mời họ vào tham gia hợp tác khai
thác như các đối tác nói trên.
6.
Khi tôi nhấn mạnh mục tiêu “dân tộc và dân chủ” thì có ý kiến nói “còn
mục tiêu Xã Hội Chủ Nghĩa nữa chứ”. Tôi hiểu ý kiến này muốn nói đến
mục tiêu XHCN gắn với ý thức hệ trong mối quan hệ với Trung Quốc. Tôi
không bác bỏ mục tiêu XHCN, nhưng đó là CNXH theo cách hiểu mà tôi cho
là khoa học, khác xa cái CNXH theo mô hình của Liên Xô, Trung Quốc.
Theo tôi, cần tiếp cận CNXH theo hệ giá trị – đó là những giá trị tốt
đẹp thật sự, đạt được trong đời sống xã hội, chứ không phải theo mô
hình thế này và thế kia, càng không phải bằng từ ngữ và khẩu hiệu. CNXH
theo nghĩa chân chính thì nhất thiết phải là kết quả của một trình độ
phát triển rất cao của dân tộc và dân chủ xã hội, chứ không phải là
những ý muốn chủ quan được vạch ra để bắt hiện thực phải khuôn theo.
Giải quyết tốt vấn đề dân tộc độc lập và phát triển, xã hội thật sự dân
chủ, con người thật sự tự do và hanh phúc thì đó mới chính là con đường
đúng đắn tiến tới CNXH, chứ không phải như mô hình của Liên Xô, Trung
Quốc và phe XHCN trước đây. Để mất nước, mất độc lập, hoặc dân tộc bị
kìm hảm không thể phát triển vượt lên, xã hội mất dân chủ thì CNXH chỉ
là chuyện hão huyền, không bao giờ có thật. Chúng ta đã nêu rất nhiều
khẩu hiệu về CNXH nhưng đến nay trên thực tế thì các nước tư bản phát
triển (CNTB hiện đại) mới là những nước đã đến gần nhất với CNXH mặc dù
họ không có khẩu hiệu nào và mặc dù họ vẫn còn rất nhiều khuyết điểm.
Nói các nước tư bản phát triển, nhất là Bắc Âu và khu vực gần đó, đang
gần nhất với CNXH là trên cơ sở nghiên cứu về năng suất lao động xã
hội, thu nhập bình quân đầu người, vai trò của sở hữu xã hội, vấn đề
phúc lợi xã hội, giáo dục và chăm sóc sức khỏe nhân dân, bảo vệ quyền
con người, quyền tự do và dân chủ…. Còn Việt Nam ta thì nằm ở khoảng
cách phía sau xa so với các nước đó, và càng xa hơn nữa đối với mục
tiêu XHCN, thậm chí trong lòng xã hội VN hiện tại đang bao gồm rất
nhiều yếu tố của CNTB hoang dã trộn lẫn các tàn dư phong kiến. Còn
Trung Quốc thì thực chất đã biến tướng thành một đế chế phong kiến độc
tài và bành trướng bá quyền cộng với CNTB hoang dã. Nếu đem Trung Quốc,
hay Liên Xô trước đây, ra so sánh với các nước tư bản phát triển thì
chính các nước tư bản phát triển ấy lại gần CNXH hơn. CNTB hiện đại
ngày nay cũng đã khác rất xa, khác về chất so với CNTB hoang dã thời
Marx đã sống và viết Tư Bản Luận. Chính họ (chứ không phải Liên Xô hay
Trung Quốc) đang và sẽ tiếp tục chứng minh nhận định của Marx là đúng.
Đó mới là tư duy khoa học chứ không phải kiểu lý luận giáo điều đã bị
chính trị hóa về mô hình CNXH sai lầm của phe XHCN trước đây mà mãi đến
nay vẫn chưa khắc phục xong. Còn cái tư duy về hai hệ tư tưởng chia
thành hai phe đối lập nhau là TBCN và XHCN thì đã lạc hậu lắm rồi. Đó
là sự sai lầm hơn một thế kỷ của nhiều nước, bắt đầu từ những người
đứng đầu mấy nước lớn ở hai phe, đã gây ra rất nhiều mâu thuẫn trong
cộng đồng quốc tế và những cuộc chiến tranh gây chết chóc đau thương
cho nhiều chục triệu người, để rồi cuối cùng sau gần một thế kỷ phải
quay lại coi nhau là đối tác, cùng nhau giải quyết các vấn đề chung của
thế giới và khu vực. Việc chuyển từ thù địch sang làm đối tác và bè bạn
của nhau là xu hướng tiến bộ, đúng đắn, nhưng chính điều đó cũng đã
chứng tỏ việc phân chia thành hai hệ tư tưởng thù địch như trước đây là
sai lầm nghiêm trọng. Với cái kiểu của Trung Quốc như hiện nay mà cứ
nhân danh CNXH và hệ tư tưởng để đi theo họ trong khi không đủ bản lĩnh
và trí tuệ để ứng xử thì ta chẳng những sẽ mất độc lập chủ quyền mà còn
có nguy cơ bị đồng hóa chứ không bao giờ đến được CNXH chân chính (tôi
dùng chữ chân chính ở đây để phân biệt với cái biến tướng, lợi dụng,
nhân danh, giả mạo, lừa phỉnh). Tất nhiên ta luôn thật lòng mong muốn
quan hệ hữu hảo để hợp tác cùng phát triển và làm đối tác tốt của Trung
Quốc cũng như các nước khác. Nhưng đó phải là đối tác bình đẳng và được
tôn trọng chủ quyền, cũng như độc lập tự do về tư tưởng và tự quyết
định mọi công việc.
7.
Cũng có ý kiến nêu vấn đề có tính nguyên tắc trong giải quyết chuyện
Biển Đông là, ngoài việc bảo vệ chủ quyền quốc gia, phải giữ cho được
hòa bình và quan hệ hữu nghị với Trung Quốc. Mới nghe qua dễ nghĩ rằng
phương châm đó là đúng bởi vì ai cũng mong muốn hòa bình để xây dựng
đất nước. Nhưng phải suy nghĩ sâu hơn đối với vấn đề này. Nếu cùng lúc
đạt được cả ba mục tiêu (chủ quyền, hòa bình và hữu nghị) thì quá tốt
rồi, không còn gì bằng. Ai mà chẳng muốn thế. Phương châm ứng xử ấy
không riêng đối với Trung Quốc mà đối với tất cả các quốc gia khác cũng
vậy thôi. Và tư duy đó đã có từ lâu rồi chứ không phải do ai mới nghĩ
ra hôm nay. Có từ lâu rồi nhưng tình hình thực tế đến nay cho thấy ta
không (hoặc chưa) thành công, chỉ vì Trung Quốc không muốn thế. Ta dại
gì lại đi gây chiến hoặc bất hòa với một nước lớn ở bên cạnh mình.
Nhưng yêu cầu hòa bình và hữu nghị ấy phải trên nguyên tắc cao nhất là
đôi bên tôn trọng chủ quyền của nhau, họ không xâm lăng chiếm Biển,
chiếm đất của ta. Hòa bình và hữu nghị phải do từ hai phía. Một mình ta
có muốn bao nhiêu cũng không được nếu như Trung Quốc chẳng cần thứ ấy
mà chỉ cần lấy cho được biển của nước ta. Thực tế đã cho thấy họ đâu có
cần hữu nghị với VN. Ta không thể đem chủ quyền để đổi lấy hữu nghị và
hòa bình một cách hình thức. Nếu làm như thế thì hữu nghị hòa bình ấy
cũng chỉ là một kiểu nô lệ. Đó là “hòa bình, hữu nghị nô lệ”. Không thể
chấp nhận mất chủ quyền, đó là vấn đề có tính nguyên tắc. Vậy nên, điều
cốt lõi chi phối mọi việc ở đây là phải bảo vệ cho được chủ quyền. Còn
hòa bình hữu nghị cũng là yêu cầu cần thiết nhưng phải trên cơ sở của
nguyên tắc cao nhất là bảo đảm chủ quyền. “Không có gì quý hơn độc lập
tự do” như Hồ Chí Minh đã nói là chân lý thiêng liêng mà vì nó bao
nhiêu con người yêu nước đã phải ngã xuống cho đất nước này. Với bản
chất và âm mưu của Trung Quốc như vậy mà yêu cầu phải đạt được đồng
thời cùng lúc cả ba mục tiêu như nhau (là chủ quyền, hòa bình và hữu
nghị) thì giống như đánh đố, tự làm bí đường cho quân ta.
8.
Có ý kiến phê phán chiều hướng muốn nghiêng về phía Mỹ và Phương Tây,
muốn tăng cường quan hệ Việt-Mỹ lên đối tác chiến lược toàn diện và lưu
ý phải đề phòng có ngày Mỹ và Trung Quốc thỏa hiệp với nhau, bán đứng
ta hoặc bỏ ta giữa đường. Đúng là trong thực tế trước đây mấy nước lớn
đã từng có lúc “bán” Việt Nam, trong đó phải kể nhiều nhất là Trung
Quốc. Suy nghĩ cho chín chắn mọi điều là cần thiết, nhưng đồng thời
cũng đừng để cho sự đa nghi hoặc chịu ảnh hưởng của chiến tranh tâm lý
tung ra từ Phương Bắc làm cho ta không thấy được đường ra mà cứ nằm mãi
trong vùng ảnh hưởng của họ. Sao lại đặt vấn đề phải nghiêng bên này
hay bên kia ? Việt Nam phải là một dân tộc trưởng thành, một dân tộc
văn hiến, biết đứng vững trên đôi chân của chính mình bằng tinh thần
độc lập và tự cường, không phụ thuộc, không thụ động hay dựa dẫm ỷ lại
vào bất kỳ ai, kể cả đối với bạn tốt. Mà đã là bạn tốt thì không ai lại
muốn ta thụ động và dựa dẫm. Chỉ có độc lập và tự lập mới giúp ta thật
sự trưởng thành. Trước tiên phải biết dựa vào sức mạnh của một dân tộc
có bản lĩnh, có truyền thống yêu nước, biết tự trọng, tự lực và anh
hùng sáng tạo trong đấu tranh giữ nước. Người ta có thể chiến thắng một
đạo quân, nhưng không ai có thể chiến thắng nổi một dân tộc kiên cường
và thống nhất. Đồng thời tất nhiên cũng rất cần, luôn cần bạn bè tốt để
gắn bó thủy chung, nhất là trong lúc khó khăn hoạn nạn có nhau. Như bài
trước tôi đã nói, chỗ dựa vững chắc và đáng tin cậy nhất là nhân dân,
là cộng đồng dân tộc. Xa rời nhân dân, không hành động theo ý chí và
nguyện vọng của nhân dân thì sẽ đánh mất tính chính danh và không còn
sức mạnh để chiến đấu.
Sự thận trọng là cần thiết, nhưng nếu cứ luôn đặt câu hỏi rằng không
biết sau này ai sẽ tốt mãi với ta và ai sẽ không thủy chung nữa, hay
nước nào sẽ thỏa hiệp điều gì với nước nào trong cơ chế thị trường này
thì chẳng thể nào có câu trả lời hoàn hảo được. Hiện tại thấy ai tốt
thật lòng, trong đó có việc đầu tiên là tôn trọng chủ quyền và lợi ích
chính đáng của ta thì kết bạn, nhất là khi xét thấy lợi ích chính đáng
của đôi bên không mâu thuẫn nhau. Việt Nam là một dân tộc thủy chung
với bạn bè, không bao giờ phản bạn. Còn ai không tốt với mình nữa thì
không cần phải chơi thân đến mức mất cảnh giác như thời An Dương Vương.
Một nước có thể hôm qua là đối tác chiến lược nhưng hôm nay lại chơi
xấu – xâm phạm chủ quyền quốc gia của chúng ta thì có thể dừng (hoặc
tạm dừng) đối tác chiến lược. Đó là chuyện rất bình thường. Thế giới
vẫn sống với nhau như vậy đó thôi.
Có ý kiến còn nói đi với Tàu thì mất nước, đi với Mỹ thì mất chế độ, cả
hai ông này đều nguy hiểm, không thể chơi thân với ai được. Ý kiến này
thuộc loại không tin ai cả, cảnh giác tất cả. Về thực chất thì đó cũng
là một cách suy nghĩ theo lối thụ động, không tin vào chính mình. Sao
lại nghĩ sẽ mất cái này hoặc cái kia nếu đi với ông này hoặc ông kia.
Mất cái này hay cái kia thì chính là tại mình, do mình, chứ đừng đổ lỗi
cho ai. Biết dựa vào dân, tôn trọng và phát huy dân chủ, không tham
nhũng, được nhân dân tin tưởng thì nước không mất và chế độ cũng vậy.
Không lắng nghe nhân dân, không theo ý chí và nguyện vọng của nhân dân,
mất dân chủ, để cho lòng dân ly tán thì nước sẽ mất và chế độ cũng sẽ
không còn. Mà việc gắn bó máu thịt hay không gắn bó với nhân dân là do
ta chứ không phải do Tàu hay do Mỹ, đừng đổ lỗi cho bất kỳ ai. Giữa Tổ
Quốc và chế độ thì Tổ Quốc đương nhiên phải là trên hết. Chế độ chân
chính nào cũng phải phục vụ cho Tổ Quốc chứ không phải ngược lại. Đồng
thời, chế độ chính trị lúc nào cũng là một vấn đề đại sự. Một chế độ
tốt được nhân dân ủng hộ sẽ giữ nước được lâu bền, một chế không tốt
làm cho nhân dân ly tán và oán giận sẽ dẫn đến mất nước. Cần phải xây
dựng một chế độ tốt cũng là kế sách để giữ nước lâu bền. Thế giới đã có
những thay đổi lớn. Tàu hay Mỹ bây giờ cũng đều khác xưa. Tàu ngày xưa
đã có lúc giúp ta (dù với động cơ này hay động cơ khác). Tàu bây giờ
đang quyết liệt chiếm biển của ta. Mỹ ngày trước coi Đảng Cộng Sản Việt
Nam là đối thủ. Mỹ bây giờ coi Đảng Cộng Sản Việt Nam cầm quyền là đối
tác, Tổng thống Mỹ đã mời Tổng Bí thư Việt Nam sang Nhà Trắng ở
Washington để bàn chương trình hợp tác lâu dài.
Còn nói mất chế độ là chế độ gì ? Nếu phong kiến thì mất càng tốt chứ
sao. Nếu tư bản hoang dã thì cũng cần phải bỏ đi. Thế giới văn minh đã
từ bỏ phong kiến và tư bản hoang dã. Còn chế độ XHCN thì chưa có (mà
còn lâu lắm cũng không biết lúc nào mới có – như một vị lãnh đạo nước
ta đã nói). CNTB hiện đại cũng chưa có. Vậy sợ mất chế độ nói ở đây
thực chất là mất cái gì ? Chắc người ta muốn nói đến chế độ xã hội do
Đảng Cộng Sản Việt Nam đang lãnh đạo, nói cách khác là sợ mất vai trò
lãnh đạo của Đảng CSVN. Việc ấy thì chẳng ai có thể vào đây mà đánh mất
được, chỉ trừ khi Đảng tự mình đánh mất. Mất còn ở đây phụ thuộc lòng
tin của nhân dân. Mà lòng tin của nhân dân thì lại do sự trong sạch,
chân chính và năng lực lãnh đạo của Đảng tạo nên, hoặc có hoặc không,
hoặc còn hoặc mất. Muốn giữ thì cần phải giữ cái điều cốt lõi ấy chứ
không phải đi giữ cái khác mà được đâu. Nếu không giữ được lòng tin của
nhân dân thì không có Tàu, không có Mỹ cũng sẽ thất bại.
9.
Nói tới việc lựa chọn Phương Bắc hay Phương Tây thì câu chuyện sẽ rộng
hơn và liên quan đến con đường phát triển. Nhưng đã có ý kiến phản biện
thì nhân đây tôi cũng xin nêu mấy ý kiến của mình. Gần hai thế kỷ trước
đây Marx đã phân chia quá trình phát triển của nhân loại sẽ lần lượt đi
qua 5 giai đoạn theo các hình thái kinh tế xã hội là: Nguyên Thủy, Nô
Lệ, Phong Kiến, Tư Bản Chủ Nghĩa và Xã Hội Chủ Nghĩa. Ta tôn trọng cách
phân chia đó của ông. Nhưng quan sát thực tế một thế kỷ vừa qua những
gì đã xảy ra ở Liên Xô và Đông Âu cho thấy lịch sử đã không như thế mà
nhiều nước từ phong kiến lên thẳng XHCN và sau đó 7-8 thập kỷ thì lại
từ XHCN ấy chuyển tiếp sang TBCN. Marx đã sai ở đây chăng? Theo tôi,
trong vấn đề này ông không sai, mặc dù không phải Marx nói cái gì cũng
đúng. Vậy ở đây là cái gì, giải thích ra sao? Cái XHCN ở Liên Xô và
Đông Âu trước đây không phải là XHCN như tư duy của Marx. Trung Quốc và
Việt Nam ta cũng bắt đầu từ đó. Tôi không phản đối ý kiến cho rằng,
lịch sử ở một nước nào đó cũng có thể đi tắt đón đầu, nhưng phải hành
động đúng quy luật khách quan, chứ không thể bằng ý chí chủ quan áp
đặt, càng không thể thay thế nền tảng vật chất chưa có bằng bất cứ thứ
chuyên chính gì. Bên cạnh cách phân chia giai đoạn như Marx, theo tôi
có thể có một cách phân chia nữa, không phải theo hình thái kinh tế xã
hội mà theo trình độ phát triển. Đó là các giai đoạn: Chưa phát triển,
phát triển thấp, phát triển trung bình, phát triển cao và phát triển
rất cao. (Lâu nay người ta thường nói là các nước chưa phát triển, đang
phát triển và phát triển). Sự phát triển nói ở đây bao gồm cả số lượng
và chất lượng; cả kinh tế, văn hóa, xã hội, chính trị và nhất là con
người. Tìm mối liên hệ giữa hai cách phân chia giai đoạn như trên ta có
thể thấy, ứng với CNTB là giai đoạn phát triển cao và ứng với CNXH phải
là giai đoạn tiếp theo – phát triển rất cao. Theo đó, chính sự phát
triển mới quyết định có hay không có CNXH, còn mọi thứ khác đều không
thể đem lại CNXH. Xin chớ lầm tưởng mà sai đường. Hiện tại, các nước tư
bản phát triển đã vượt xa các nước gọi là XHCN. Dù nói rất nhiều về mục
tiêu XHCN nhưng nếu không phát triển thì chẳng có CNXH nào đâu. Dù
không nói CNXH nhưng nếu phát triển tốt thì tất yếu sẽ có CNXH. Vì vậy
mà ở phần trên tôi đã nói chính các nước tư bản phát triển mới là những
nước tiến đến gần nhất CNXH. Theo đó, trong tư duy của tôi, CNXH và
CNTB khác nhau chủ yếu là ở trình độ phát triển, chứ không phải ở tính
chất khác biệt hay đối lập. Quá trình phát triển ấy như một sự tiếp nối
tự nhiên chứ không phải là sự “lật đổ” và “thay thế”.
Phương Tây nhìn chung đã phát triển hơn Phương Đông. Mỹ, Châu Âu, nhất
là khu vực Bắc Âu và một số nước gần đó, đã phát triển hơn Trung Quốc,
Việt Nam…Ngày xưa, có thời kỳ Châu Âu cũng chưa phát triển được, còn
trong đêm dài của chế độ thần quyền, ai nói khác giáo hội có thể bị đưa
lên dàn hỏa thiêu hoặc giá treo cổ. Sau đó, nhờ các phong trào Khai
Sáng, Phục Hưng…đã thế tục hóa, giải phóng cho con người được tự do tư
tưởng và tự do ngôn luận, từ đó mà có con đường để tiếp cận các chân lý
khách quan. Châu Âu đã phát triển vượt lên. Trong khi đó Châu Á vẫn
trong đêm dài của chế độ phong kiến kìm hãm con người nên đã nằm lại ở
phía sau xa trong tiến trình phát triển. Vào cuối thế kỷ 18 sang thế kỷ
19 nhiều nước ở Châu Á đã bị các đối thủ từ Châu Âu phát triển hơn mình
một nền văn minh đã đến chinh phục và đô hộ. Trong Châu Á ấy, có một số
nước sớm nhận ra mặt ưu điểm của văn minh Phương Tây, họ đã biết tiếp
thu và vận dụng phù hợp vào hoàn cảnh cụ thể của nước mình nên đã phát
triển vượt lên, đa số nước còn lại nhìn chung vẫn chậm chạp và tụt hậu
so với thế giới văn minh. Nước ta chịu ảnh hưởng khá nhiều của văn hóa
Phương Bắc và thực tế cho thấy đến nay chúng ta vẫn còn tụt hậu khá xa
ở rất nhiều mặt. Nền văn hóa Việt Nam của chúng ta có mặt mạnh nổi trội
thuộc về văn hóa (trong) giữ nước và mặt yếu cũng nổi rõ thuộc về văn
hóa (trong) phát triển. Nước ta nhiều lần bị mất nước không phải vì ta
là nước nhỏ hoặc vì thiếu anh hùng, mà là vì sự lạc hậu. Khi mất nước
rồi, bằng rất nhiều máu xương và sự anh hùng, cha ông ta đã lấy lại đất
nước. Giành lại được nước rồi nhưng vẫn không phát triển, vẫn lạc hậu,
và lại mất nước lần nữa. Cứ thế, lịch sử đã lặp đi lặp lại nhiều lần
như vậy. Cái nguyên nhân mất nước ấy chỉ có thể giải quyết bằng sự phát
triển mạnh lên mới là cách căn bản và lâu dài. Nếu từ nay trở đi, đồng
thời với việc tiếp tục chọn lọc và phát huy phần tinh hoa văn hóa của
dân tộc nói riêng, của Phương Đông nói chung, chúng ta biết cầu thị và
tích cực nghiên cứu tiếp thu có chọn lọc phần tinh hoa văn hóa của
Phương Tây để phát triển dân tộc và quốc gia Việt Nam thì thiển nghĩ đó
cũng là cách hợp lý và rất cần thiết. Muốn vậy, cần phải có một sự
chuyển hướng, cải cách căn bản để phát triển. Không phát triển ta chẳng
những không đạt được mục tiêu lý tưởng nào mà có thể còn mất độc lập
dân tộc trong thời đại mới theo cách này hoặc cách khác.
10.
Thực tế lịch sử dân tộc và lịch sử thế giới cho thấy có nhiều con đường
khác nhau để phát triển, nhưng trong đó nổi rõ có hai con đường chủ
yếu. Thứ nhất, phát triển bằng thể chế dân chủ và tự do, dựa chính vào
nhân tố con người. Người ta thường gọi đó là “con đường dân chủ”. Thứ
hai, phát triển bằng sự tập trung quyền lực, toàn trị, mệnh lệnh, mất
dân chủ và thậm chí kể cả độc tài. Người ta còn gọi đó là “con đường
chuyên chính”. Cả hai con đường đó đều có thể phát triển. Một bên dựa
chính vào nhân tố động lực con người, còn bên kia thì dựa chính vào khả
năng tập trung nguồn lực và quyền lực. Và đương nhiên con đường nào
cũng đều có những gian khổ, chông gai, đừng nghĩ con đường nào là bằng
phẳng, dễ dàng và chỉ có ưu điểm. Phương Tây ngày nay rất nhiều nước
phát triển theo con đường thứ nhất. Phương Đông trước kia nhiều nước đi
theo con đường thứ hai, nhưng thời kỳ sau đó đã có một số nước chuyển
đổi theo con đường thứ nhất và họ đã thành công. Nhật Bản, Hàn Quốc,
Singapore, Đài Loan là loại nước và vùng lãnh thổ kiểu đó. Liên Xô
trước đây cũng như Trung Quốc ngày nay đã có những thành công nhất định
theo con đường thứ hai. Cả hai nước này thì Liên Xô đã từng và Trung
Quốc ngày nay đang trở thành nước có nền kinh tế thứ nhì thế giới nếu
tính theo tổng sản phẩm quốc nội. Tuy nhiên, nếu phân tích sâu hơn, thì
sẽ thấy sự phát triển theo con đường thứ nhất mới bền vững, nhân dân
hạnh phúc hơn vì có tự do, dân chủ, vấn đề con người được đặt vào vị
trí trung tâm. Con đường thứ hai tuy cũng có thể phát triển nhanh trong
một giai đoạn nào đó, nhưng nhân dân không hạnh phúc vì thiếu tự do dân
chủ, và chắc chắn sự phát triển đó sẽ không bền vững, sẽ có khủng hoảng
lớn về xã hội sau chu kỳ phát triển mạnh. Liên Xô trước đây và ngay cả
Việt Nam ta thời Lê Thánh Tông… cũng đã cho thấy như vậy. Con đường
phát triển thứ nhất là con đường mà rất nhiều nước tiên tiến trên thế
giới đang đi, trong đó có các nước Tư bản hiện đại (chứ không phải như
CNTB hoang dã ngày trước). Dân chủ cũng (phải) là vấn đề có tính bản
chất của CNXH, là con đường đúng nhất để đến với CNXH chân chính. Đó là
xu thế tiến bộ, xu thế lịch sử - thời đại. Thiết nghĩ, nước ta nên lựa
chọn con đường thứ nhất – phát triển bền vững, có tự do dân chủ và hạnh
phúc của nhân dân. Con đường ấy phù hợp với mong muốn của nhân dân Việt
Nam. Đừng bao giờ quên mục tiêu “Dân chủ - độc lập - tự do - hạnh phúc”
là các thành tố và tiêu đề của tên nước đã được nêu ra từ ngày tuyên bố
độc lập năm 1945. Khi có quyền lực trong tay, bị quyền lực cám dỗ,
nhiều người dễ quên đi mục tiêu dân chủ, thậm chí có người còn cao ngạo
coi nhân dân chẳng ra gì, cứ như thể chỉ có mình mới là sáng suốt. Đi
con đường thứ nhất ta còn có được cả khối dân chủ của thế giới văn
minh, không phải đơn độc mỗi khi bị người khác bắt nạt.
Tôi biết cũng có ý kiến lo lắng rằng, nếu đi theo con đường dân chủ thì
không biết Đảng Cộng Sản có giữ được vai trò lãnh đạo không, hay đất
nước lại bất ổn chính trị kéo dài (thậm chí sẽ đổ máu) do sự tranh
giành quyền lực giữa các phe phái, các nhóm cơ hội chính trị? Đặt câu
hỏi như vậy cũng là dễ hiểu và đó là một câu hỏi nghiêm túc. Nhưng nghĩ
như vậy thì chẳng lẽ Đảng Cộng Sản chỉ có thể giữ quyền lãnh đạo bằng
cách mất dân chủ hay sao? (Trong khi mất dân chủ là trái với mục tiêu
phấn đấu mà Đảng đã nêu ra). Nghĩ như vậy cũng là không còn tin tưởng
vào khả năng của Đảng? Tôi thì không nghĩ như thế. Tôi nghĩ khác. Trong
môi trường dân chủ Đảng sẽ trưởng thành và tốt hơn. Trong môi trường
không dân chủ mà tập trung quyền lực thì Đảng cầm quyền sẽ thoái hóa.
Đi theo con đường dân chủ, Đảng không thoái hóa mà lại trưởng thành,
tốt hơn, dương cao ngọn cờ dân chủ và xứng đáng với ngọn cờ ấy là con
đường để Đảng trường tồn cùng với sự phát triển của dân tộc và đất
nước. Khác đi, để Đảng bị thoái hóa quyền lực thì Đảng sẽ tự kết thúc
sứ mệnh của mình. Lúc đó có muốn giữ cũng không giữ được.
Đặc điểm của nước ta đến nay chỉ có một lực lượng chính trị duy nhất là
Đảng Cộng Sản đang lãnh đạo. Nếu Đảng thoái hóa và mất hết lòng tin của
nhân dân rồi, không còn lãnh đạo được nữa, thì lúc ấy lực lượng nào sẽ
lãnh đạo? (Mà đất nước thì không thể không có lãnh đạo chính trị!) Một
người bạn đã đặt cho tôi câu hỏi đó. Tôi nghĩ không phải lo như vậy
đâu, cuộc sống sẽ tự mở đường. Trong Đảng dù có thoái hóa nữa vẫn còn
nhiều người tốt, bộ phận tiên tiến đó cộng với các trí thức chân chính
có tâm huyết với dân tộc và nhiều người yêu nước khác…họ sẽ tập họp
nhau lại để thực hiện trách nhiệm với Tổ Quốc. Đó là nói trong trường
hợp xấu nhất cho hết ý vậy thôi, chứ tôi tin một Đảng chính trị đã được
rèn luyện như Đảng CSVN không dễ gì đầu hàng sự thoái hóa của chính
mình để nhận lấy thất bại và tan rã.
Khi Đảng CSVN dương cao ngọn cờ dân chủ, đại diện chân chính cho ngọn
cờ đó, thúc đẩy thành công sự nghiệp ấy thì tôi tin nhất định nhân dân
sẽ ủng hộ Đảng tiếp tục giữ vai trò lãnh đạo đất nước. (Xin nói thêm,
không đồng nhất con đường dân chủ với chế độ đa đảng, mặc dù hai vấn đề
đó có mối quan hệ nhất định với nhau – việc này sẽ bàn sau trong một
bài khác).
11.
Về nước Mỹ và mối quan hệ giữa Việt Nam và Mỹ, tôi cũng xin bình luận
ít lời. Họ tuyên bố độc lập cách đây 243 năm. Khoảng 100 năm trước đây
họ đã là một quốc gia phát triển mạnh nhất thế giới. Vậy là chỉ khoảng
143 năm sau khi độc lập họ đã phát triển như vậy, trong khi nhiều nước
khác tuyên bố độc lập trước họ rất lâu mà mãi đến nay vẫn còn ở phía
sau xa. Thực tế đó cho thấy họ có nhiều kinh nghiệm phát triển bậc nhất
thế giới. Theo một số học giả của Mỹ và thế giới, nguyên nhân thành
công trước tiên thuộc về giáo dục. Một nền giáo dục khai mở và sáng
tạo. Theo một số đánh giá của tổ chức quốc tế và các chuyên gia về giáo
dục, trong 100 trường đại học được cho là top hàng đầu thế giới thì
riêng nước Mỹ đã chiếm một nửa, còn lại tất cả các quốc gia khác trên
khắp thế giới cộng lại chỉ bằng một nước Mỹ. Và, nếu tôi nhớ không nhầm
thì cách đây gần 100 năm chính Lê-nin đã có lần nói phải đi học nền
giáo dục của nước Mỹ để về xây dựng và phát triển Liên Bang Xô Viết.
Rất tiếc là sau đó người ta đã không làm như thế. Mỹ cũng là nước có
thị trường hàng hóa, thị trường công nghệ và thị trường vốn đứng đầu
thế giới. Ngay cả Trung Quốc cách đây không lâu cũng đã tập trung đi
học kinh nghiệm của Mỹ và nhờ họ giúp đỡ để thực hiện cải cách. Từ đó,
Trung Quốc tiến vượt lên về kinh tế. Đặc biệt trong thời gian gần đây,
Mỹ là quốc gia luôn lên tiếng đầu tiên và lên tiếng mạnh mẽ nhất để phê
phán sự xâm lăng của Trung Quốc, ủng hộ việc bảo vệ chủ quyền biển của
Việt Nam. Lợi ích của ta và họ trên Biển Đông hiện tại về cơ bản không
mâu thuẫn mà phù hợp nhau. Trong quan hệ đa phương hiện nay, nếu tăng
cường được mối quan hệ hữu nghị hợp tác với một quốc gia như nước Mỹ để
trao đổi và tiếp thu kinh nghiệm phát triển của họ thì đó là việc cần
thiết và nên làm đối với nước ta.
Vũ Ngọc Hoàng
Tp. HCM ngày 20.10.2019
NGUỒN : nhận được ngày 20.10.2019
(*)
Chú thích của Diễn Đàn :
Chúng tôi tôn trọng văn bản của tác giả. Riêng những từ "lãnh hải"
trong bài này, liên quan tới Bãi Tư Chính, hay những vùng ở các bờ biển
Việt Nam trong khoảng 12-200 hải lý, xin hiểu là "vùng kinh tế đặc
quyền" (EEZ), mà theo công pháp quốc tế và luật biển, các nước có quyền
tự do đi lại, nhưng chỉ Việt Nam có quyền khai thác (trong biển và dưới
biển).
Các thao tác trên Tài liệu