Nhà có phúc
Nhà có phúc (*)
Lê Minh Hà
Nhà
bác Tín nằm ngay đầu ngõ sát
mặt đê nhưng quay lưng lại nhà
ông lang Mạch. Nếu không sang nhất thì
nhà bác cũng là nhà cao nhất
ngõ. Bé như tôi thì phải bò
úp bụng vắt chân mới lên được
thềm, phải bước qua ba bậc gạch
trị xi măng nữa mới vào được
trong nhà.
Nhà xây thềm cao, lại theo kiểu kín đáo nhà quê mặt sau trổ cửa sổ bé tí nên đi ngoài ngõ không ai nhìn được vào trong nhà bác Tín. Mà trong đó thì lại có cái để ngó, là đứa cháu gái của bác suốt ngày được đặt nằm trong buồng. Nó bé hơn tôi chừng ba tuổi. Bọn trẻ con chúng tôi đứa lớn thì phải liều lĩnh nhảy lên một cái, túm song cửa gỗ, đứng mớm chân trên toàn những gạch vỡ, mảnh bát chất ở chân tường, bọn bé hơn thì phải chia nhau còng lưng làm ngựa cho đứa khác trèo lên lưng để nhòm vào. Con bé đã hơn ba tuổi người đeo đầy bùa may bằng vải diềm bâu nhuộm điều nhưng đã ngả màu đỏ quạch nằm thẳng cẳng trên cái phản trong buồng, đầu to đùng mắt thô lố. Chúng tôi nhìn nó, nó nhìn chúng tôi, rồi đột nhiên không có gì báo trước, không có đến cả một cái động đậy chân tay, nó ré lên „tiên sư cha nhà chúng mày“, đúng cái câu bà nó đang ngồi sàng sẩy cân đong đầu thềm sẽ ré tiếp. Không cần bác Tín thả cái giần cái sàng rời đống gạo đứng dậy vào buồng nhìn ngó, bọn trẻ con chúng tôi buông cái chấn song con tiện, nhảy xuống chạy trối chết, khối đứa méo mặt sau đó vì rơi bịch xuống lủng củng gạch vỡ mảnh bát mảnh chai. Nhưng vẫn còn hơn bị bác Tín bắt được rồi mách người lớn, thể nào cũng được ăn dăm ba cái roi le mềm mại mà quất vào thì đau thít người.
Thực ra thì bác Tín chưa bắt đứa nào bao giờ, nhưng đứa nào cũng sợ bác. Ngang sợ ông Mạch mà không rõ vì sao. Kể nhìn bề ngoài thì bác Tín rất đẹp gái, ấy là theo quan điểm về nhan sắc đàn bà bây giờ. Trán cao, mũi thẳng, miệng nét, gò má và cằm gọn. Đã lên làm bà nội không phải một lần, bà nội của con bé nằm trong buồng và của những mấy ma trẻ con nữa mà bác vẫn nguyên dáng người son sẻ, không phát phì như tuổi bọn tôi bây giờ do suy giáp vẫn tham ăn, cũng không khô đét mo nang kiểu đàn bà tuổi dày cơ cực bền.
Bây giờ mà có gương mặt như bác Tín í à, thêm đôi cẳng sáo thì thành Top Model là cái chắc, vì rất dễ ăn hình, mà không thành được tốp mô đần thì cũng sẽ không mất tiền đập đi san ủi gọt bào bơm hút xây lắp lại từ cái cằm cho tới ngực bụng như đàn bà con gái có tí tiền của thời nay theo mốt Hàn quốc. Đẹp gái thế mà bác ở một mình từ lúc ngoài hai mươi. Bà bảo người ta nói mẹ Tín tướng sát chồng, nó mới lấy có một chồng không may mà chết chứ có phải có cả đống chồng ở với nó đểu chết đâu. Chung quy chỉ tại cái gò má thanh cao. Chồng bác mê bác lắm, nhà chồng cũng phải gật vì ngoài cái nhan sắc rực rỡ lạnh lùng không theo thẩm mỹ số đông đàn ông Việt một thời bác Tín còn được tiếng là cực kì giỏi dắn. Giỏi dắn kiểu đó, làng quê Việt một thời không có nhiều. Nghe nói từ lúc mười lăm mười sáu bác Tín đã nửa ăn xin nửa ăn vạ bà mẹ để mượn vốn, đầu tiên làm gánh hàng xén, sau bỏ mối ở các chợ phiên. Thời cả làng lao đao vì Pháp dồn dân chiếm đất xây lô cốt, bác vẫn tểnh tềnh tênh với đôi quang thúng nhóng nhánh sặc sỡ những kim chỉ lược gương khuy cúc dải rút bấc đèn và trăm thứ bà dằn mà cứ nhìn là người ta thấy cần. Chồng bác mát mặt với cả họ nhờ vợ. Tiếc là chẳng được bao lâu thì bác Tín giai ốm rồi chết. Chồng chết, kháng chiến thành công, bác Tín quảy gánh trở về làng, tay dắt theo thằng con bốn tuổi là anh Tín. Các bà ngồi với nhau sờ lần quá khứ, bảo chẳng biết con mẹ Tín nó làm cách nào mà qua được mấy kì thậm khổ, khổ vì chồng mất sớm quá, khổ vì nhà chồng bị quy sai thành phần chẳng nhờ cậy gì được lúc cần nhờ cậy nhất, khổ vì có độc mụn con, và khổ vì người ta bảo cái gò má ấy…
Không biết bác Tín từng khổ
nhục thế nào, chỉ nhớ là hồi
tôi theo bà về sơ tán ở làng
thì xóm tôi ở còn khối nhà
mái gianh tường trát dứng. Thế
mà bác Tín đã xây được
cái nhà ngói năm gian to vật ngay đầu
ngõ, nuôi được con giai học hết
lớp bảy ra làm ủy ban xã và
cưới được con dâu đẹp gái
nhất làng là chị Vì cho anh Tín.
Anh Tín làm ở ủy ban xã thật
đấy nhưng tôi cũng chả biết
bác Tín có phải là xã viên
hợp tác xã không, vì chả khi
nào thấy bác xắn quần cấy hái
gánh gồng giống hầu như tất cả
phận đàn bà làng khi đó.
Nhà bác cũng không có cây rơm
đầu hồi bếp để nấu nướng
hay cho trâu bò ăn tháng rét. Tại
vì bác làm hàng xáo, nhà
lúc nào cũng sẵn trấu, một năm
đôi ba lần chợ phiên đầu cầu
anh Tín gọi người chở cho xe cải
tiến củi về là đủ cho chuyện
bếp núc.
Bác Tín không làm hàng xáo
theo thời vụ mà làm quanh năm, thành
nghề. Thềm nhà bác đặt cái
cối xay bà khen là tốt nhất xóm,
giằng kéo đằm tay, nêm đều,
thóc tróc vỏ mà gạo không gãy.
Trên thềm nom lủng củng mà thật
ra là xếp đâu vào đấy những
nong nia, thúng mủng, giần sàng. Trong nhà,
ba gian rộng rãi cũng toàn thúng
chồng cao chồng thấp, mùa đông ấm
sực hơi gạo hơi cám, mùa hè
thì ngốt ngát hết cả người.
Từ dưới dốc bến đi lên, bước
dịch chân xuôi bờ đê hai ba bước
rồi ghé mắt nhìn nghiêng thềm
nhà bác Tín rất hay thấy bác
ngay giữa mùa đông cũng chỉ một
cái yếm trắng đang kéo cái
giằng xay, không xay thì ngồi sàng,
rồi trấu đi đằng trấu xuống
bếp, gạo vun vào thúng chồng đôi
gánh tới nhà ông Lâm Bũm giã
nhờ, gạo giã được rồi lại
gánh về ngồi giần. Chẳng đồng
áng gì mà hai ống quần bác
Tín lúc nào cũng vặn hình cái
móng trâu vo quá gối, bạc phếch
vì bụi cám.
Thỉnh thoảng bà qua nhà bác
Tín, thường có việc chứ không
phải là sang chơi. Bà bảo nhà
nó làm hàng, chơi bời gì, nó
tiếp mình mất việc. Nhưng lần nào
mon men theo bà tôi cũng thấy bác Tín
chỉ nghe bà dắng tiếng đã vội
vã rời cái giằng xay hay đống
gạo đang dở tay giần sàng, thả
hai ống quần xoe lên tận bẹn khi ngồi,
lại tháo cái khăn đen đang chít
giũ giũ, vồn vã mời chào. Cũng
chỉ với bà thì bác thế, chứ
bạn hàng mang thóc tới cho bác đong
hay đong gạo đi từ bác, bác Tín
cũng cứ nguyên bộ dạng ấy, khăn
áo cho tới ống quần toàn cám,
ngồi tiếp chuyện nhau.
Có mon men
theo bà tôi mới biết lúc bỏ
khăn ra tóc bác Tín đen nhánh
chẳng có lấy một sợi bạc. Bây
giờ nghĩ lại thì đúng là
phải thế, hồi đó bác Tín
còn trẻ hơn tôi bây giờ phải
tới mười mấy tuổi. Thế mà
bác Tín đã chôn xong một ông
chồng từ hai mươi mấy năm về
trước, nuôi được con phương
trưởng, xây được nhà, cưới
vợ cho con, và nuôi cháu. Bao nhiêu
là việc, việc nào cũng đủ
là việc của một đời người.
Nhưng mà chúng tôi sợ bác không
phải vì thế, trẻ con nào đã
biết gì, mà vì người lớn
nể bác. Trừ nhà tôi dân sơ
tán, còn ngoài ra, hầu như nhà
nào trong ngõ trong xóm cũng từng
phải giật nóng trả lãi bác
Tín. Bà bảo mẹ Tín nó giầu
nhờ thế chứ không phải chỉ trông
vào cái cối xay cối giã, nó
biết làm ăn, chỉ có điều…
Mãi
mãi về sau này tôi mới hiểu
những vang vọng trong khoảng bà im lặng.
Nhưng lúc đó, chúng tôi chỉ
chờ lúc bác Tín mải việc mà
tìm cách nhòm trộm con cháu nội
ba tuổi còn nằm không tự đứng
được của bác, để nghe nó
chửi rồi bác chửi. Còn trước
đó, khi chưa có con đầu to ấy,
chúng tôi lại có niềm vui nghe bác
Tín chửi con giai.
Năm dắt con trở về làng sau khi
tây rút, bác Tín đâu như
mới hai mươi mốt tuổi. Gái góa
một con, bác thôi gồng gánh buôn
bán chợ xa chợ gần, chuyển sang nghề
hàng xáo, có thì giờ để
mắt trông nom thằng con bé. Ai ngờ.
Cái
lô cốt vẫn nằm ngay rìa đê
đầu xóm. Hàng rào thép gai đã
được du kích dọn quang sau hôm mấy
đứa trẻ rủ nhau đi cắt cỏ rồi
bỏ mạng vì mìn tây gài. Cứ
tưởng. Vậy mà chỉ vì một
cái kíp mìn.
„May mà không chết. Chứ nếu
thằng Tín chết thì không biết
mẹ nó sống thế nào, khéo lại
phải đi bước nữa như nhà Bèo,
phận đàn bà giọt mưa sa! Góa
rồi, lại còn điều tiếng tướng
sát chồng, có lấy được
người nào cũng khó thoát cảnh
vơ bèo gạt tép.“ Các bà
thầm thào khi vui chuyện. Làng ngày
đó gần như chẳng thấy đàn
ông con trai ở tuổi anh Tín mà lại
khoẻ mạnh đủ chân tay nguyên vẹn
thằng bòi như lời ông Lúa bình.
Bác Tín chỉ có độc một
con nên anh Tín thoát nghĩa vụ quân
sự đã đành. Cái chính là
bác cũng chẳng cần theo dõi ngăn
cản con trai, vì anh Tín có hăng hái
theo đòi anh em xin nhập ngũ cũng không
bao giờ được cán bộ tuyển
quân gật. Là bởi cái gì anh
Tín cũng đủ, chỉ thiếu có
một mắt. Thời chiến tranh, anh Tín
chột nhưng là đàn ông trẻ
trai, lại học những lớp bảy, làm
ủy ban có công điểm cố định
đàng hoàng, nhà chẳng giàu nứt
đố đổ vách thì cũng bát
ăn bát để, mẹ đang còn khoẻ
chân mạnh tay có tiếng là cơ
chỉ, không bị điều tiếng gì
suốt ngần ấy năm goá bụa, lại
không có „giặc bên Ngô“…
bao nhiêu là ưu điểm. Thế nên
chả cần anh Tín đi tìm hiểu, bác
Tín nhìn vào nhà nào có con
gái là nhà người ta cũng muốn
cho con xây dựng với anh. Nhưng bác Tín
không chọn con dâu trong xóm, bác xin
cưới chị Vì nhà ở tận đầu
làng về làm dâu. Hồi đó
tôi chỉ thích lẵng nhẵng theo cô
Cẳm nhà ông Lúa hay hát chèo,
chỉ thích những kiểu con gái son sẻ
tính tình nhẹ nhõm như cô, thấy
chị Vì vợ anh Tín áo xanh trứng
sáo may kiểu Hồng Công, quần phíp,
tóc buộc khăn mùi xoa, nón trắng
gắn gương lại còn chằng chỉ
xanh xanh đỏ đỏ, chút chít điệu
đà hệt con bọ muỗm.
Chị Vì về làm vợ anh Tín
có khi là cô dâu sướng nhất
làng, nhà đủ ăn, ngày đến
bữa không phải trông nồi, đêm
có chồng để gác chân không
như bao nhiêu gái làng cưới tuần
trước tuần sau chồng lên đường
đêm nằm nghiến răng thi với thạch
sùng. Thế mà động cái là
chị Vì dỗi, khơi khơi cắp nón
bỏ về bên đẻ. Cứ mỗi lần
như thế là bác Tín lại cho anh
Tín một bài mắng mỏ than vãn,
rồi đến chiều tối là lại
tất tưởi đi ngược đê lên
đầu làng. Xóm giềng thấy bác
vừa đi vừa quài tay đấm đấm
lưng là biết ngay bác đi dỗ con
dâu về.
Bao nhiêu bận như thế, không một
lời gằn hắt, bác Tín chiều chị
Vì thay cả phần con trai chiều vợ vì
mong có cháu. Chọn dâu, chọn mặt,
chọn eo kĩ thế mà mãi chị Vì
mới có chửa. Nhưng ba bận chị Vì
đẻ là ba bận xóm làng náo
loạn, vì đứa trẻ sinh ra là chết
ngay. Có lần chị đẻ ngay ở nhà
không kịp võng lên trạm xá xã
chỗ đầu cầu. Nhà có người
sinh mà buồn hơn nhà có người
chết, cứ lặng phắc lặng phắc. Lúc
tụ với nhau ở chỗ lô cốt nhốt
bò, tôi nghe bọn trẻ con xôn xao rằng
chị Vì toàn đẻ quái thai. Đứa
thì là một búi lông tóc. Đứa
thì chỉ có cái đầu cái
thân không chân không tay. Đứa
không có mũi. Ông bác anh Tín
bậm bịch ôm cái bào thai chết
rồi ra bờ sông chém thêm một
nhát rồi mới thả trôi theo nước,
bảo để con ranh con lộn không dám
hiện về. Đứa cuối cùng, đầu
to mắt trố tới tận ba tuổi không
lật không lẫy bò trườn gì
được nhưng nằm một chỗ xung
quanh treo toàn bùa nói nheo nhẻo, chính
là đứa bọn trẻ con chúng tôi
hay bám cửa sổ để xem.
Sau nó, chị Vì đẻ liền tù
tì, bụng lúc nào cũng lúc lắc
lặc lè. Lúc tôi còn ở làng
chị đã ba năm đôi thêm hai
đứa nữa. Bác Tín mừng rỡ
lắm. Có lần theo bà qua nhà bác
đong tấm về ăn, nghe bác nói với
bà:
- Cháu phấn khởi quá dì
ạ.
Càng phấn khởi thì bác Tín
càng gầy, ngồi sàng sẩy hai cái
đầu gối thò ra ống quần đã
xoe lên tận bẹn nom lồi lồi lõm
lõm hệt củ lạc chưa bóc. Bây
giờ có đứa cháu nào khóc
mếu bác không còn mau mắn như
trước, phải duỗi dần hai cẳng
chân, chống tay lên đùi mới đứng
dậy được. May cho bác, giờ bọn
trẻ trong ngõ cũng lớn, trừ tôi
chẳng có việc gì chỉ biết tha
thủi một mình, những đứa khác
tuổi nào việc ấy hết rồi, chẳng
còn hứng thú gì với việc đi
nhòm đàn cháu như lợn con của
bác nữa. Còn con bé đầu to giờ
cũng đã lớn, bê được đầu
ra ngồi xua gà cho bà nó ở đầu
thềm, cổ áo vẫn đính cái
bùa mỗi ngày mỗi bạc nhìn như
miếng vá. Mẹ nó, chị Vì hay
dỗi thì từ ngày đẻ được
những đứa con bình thường cũng
đổi tính, chịu thương chịu
khó, gồng gánh thoăn thoắt. Giờ
bác Tín đau chân chỉ ngồi một
chỗ giần sàng, chị Vì bao hết
đoạn xay và giã. Chị vẫn chút
chít, nhưng giờ áo vá, nách áo
mỗi lần chị gánh gạo vừa giã
về đều có một mảng sậm màu.
Có bận tôi đang lang thang trong vườn
nhà ông Lâm Bõm với cái Dặt
cái Dìu con bà bé nhà ông,
thấy chị đứng víu sợi thừng
chăng dọc theo cần cối lấy sức ấn
nâng đầu chày, tôi cũng nhảy
vào bám lưng chị giúp đỡ,
nhưng rồi lại chạy. Cái mùi mồ
hôi nách áo chị đàn bà
đang tuổi sinh nở mặn mòi phả
ngang mặt ngạt hết cả mũi.
Ở cái tuổi nhà quê đàn
bà có thể đã sắp lên bà
chị Vì theo lệnh bác Tín vẫn
đẻ, vì lắm con thế mà mới
chỉ tòi ra được một thằng cu
giữ giống. Ngày bà cháu tôi về
thăm xóm cũ, tạt vào nhà bác
Tín, bác vẫn đang ngồi bên đống
gạo. Mắt bác giờ mờ. Bác sờ
sờ mặt cái sàng bốc bớt trấu
ra, rồi vừa chuyện vừa tiếp tục
sàng, tay thật dẻo, chốc chốc lại
đập đánh độp một cái
vào thành sàng. Những hạt gạo
xoay tròn, rúc vào nhau, nhảy lên
rồi từ từ lọt mặt sàng rơi
xuống đống gạo dưới nia, đè
lên nhau, vùi vào nhau. Rồi tất cả
cũng lại bị xúc tuốt vào cái
thúng rồi mang đi đổ vào cối
giã, đổi thay gì thì cũng lại
phận âm thầm.
Ngày đó làng chưa có máy
xay. Bác Tín chị Vì vẫn giữ
cho cả nhà ấm no được nhờ
cái nghề hàng xáo lấy công làm
lãi. Lau những giọt nước mắt sống
vào trong ống tay áo, bác Tín bảo
bà tôi:
- Cháu phấn khởi lắm
dì ạ. Ngày đó dì cháu
mình góa bụa khổ quá thể là
khổ. Đận thằng Tín nhà cháu
nghịch dại tưởng chết theo con. May mà
nó chột, có muốn trốn mẹ đi
đầu quân cho bằng anh bằng em cũng
chẳng ai cho. Giờ vợ vợ con con. Nghĩ
thế thì lại thấy một mẹ một
con cực khổ trăm bề vẫn còn may
hơn khối nhà đẻ được lắm
con giai mà lại phải lo làm giỗ hết
thằng này tới thằng khác. Thật
là nhà cháu phúc bảy mươi
đời.
(*) Cùng với các truyện Đắng
như là vắng
và Tần
ngần ngày tháng, đây là một chương rút
trong tập "Người làng",
chưa xuất bản.
Diễn Đàn trân trọng cảm ơn tác giả và hoạ sĩ Đỗ Phấn
đã gửi tặng bài và
tranh minh hoạ.
Berlin 17.11. 2016
Lê Minh Hà
Các thao tác trên Tài liệu