Hồi ức tuổi thơ: Quê ngoại
Quê ngoại
Văn Ngọc
Vào
khoảng giữa năm 1947, gia đình nhà tôi đang tản cư về quê nội Hà
Nam. Lúc đó tình hình ở đây còn tương đối yên ổn. Bỗng một hôm, ba chị
em chúng tôi đang ở ngoài vườn, chợt nghe thấy ngoài ngõ có tiếng ai
quen quen, chạy ra xem, thì chẳng phải ai xa lạ mà là bác Tư và cậu Năm
của chúng tôi từ bên Hưng Yên sang thăm. Chúng tôi mừng như bắt được
của. Thật không thể nào ngờ được. Bác và cậu tôi ăn mặc như hai ông lý,
đầu đội nón lá, tay cầm gậy đánh chó, một thói quen ở nhà quê, khi phải
đi đâu xa.
Trông thấy chúng tôi, lúc đó cũng đã bắt đầu có vẻ "phong trần" lắm
rồi, bác và cậu vừa mừng, vừa xúc động, chưa chi nước mắt đã rơm rớm.
Từ ngày mẹ tôi mất đi, cả họ bên ngoại như cảm thấy mất mát một cái gì
không thể nào bù đắp lại được. Từ bà ngoại, đến các bác, các cậu, các
mợ, và các anh chị em trong ho, đều tỏ ra rất thương chúng tôi. Hôm nay
bác và cậu tôi chẳng quản ngại đường xa, lặn lội từ bên Hưng Yên sang
đây để xin phép thầy tôi cho chúng tôi sang bên ấy chơi ít hôm thăm bà
ngoại và họ hàng.
Đường từ Dũng Kim sang làng Bông, thuộc phủ Khoái Châu, thực ra không
xa lắm, chỉ độ khoảng 30km. Hà Nam và Hưng Yên, nhìn trên bản đồ, chỉ
cách nhau có con sông Hồng. Nhưng ngày ấy ở hậu phương, làm gì có bản
đồ để mà xem, nên đi đâu xa là phải có người biết đường dẫn đi một lần
đầu, và người ta cũng ít khi đặt vấn đề đường xa bao nhiêu cây số, mấy
giờ đến nơi, v.v.
Đây là lần đầu tiên chúng tôi được đi xa làng Dũng Kim như thế, nhưng
đi với bác Tư và cậu Năm tôi, là những người từng trải không kém gì
những bác nông dân thành thạo đường lối ở vùng này, nên chúng tôi yên
trí lắm, vừa đi vừa nói chuyện, ngắm trời ngắm đất, thật là sung sướng.
Đi đến một chỗ có hàng quán, có bán cả thịt chó, trông thấy mấy chú cầy
đã được thui sạch, luộc chín, treo lủng lẳng ở trên cái sào tre trước
quầy, bác và cậu tôi chắc thèm cái món này lắm, và như để thoả mãn óc
tò mò của chúng tôi, hai người lẳng lặng ngồi xuống ghế, gọi mấy đĩa
cho cả chúng tôi cùng được thưởng thức. Lần đầu tiên trên đời tôi được
ăn thử mấy miếng thịt chó và dồi chó, thấy ngon lạ, so với thịt gà hay
thịt lợn, thật hơn hẳn một bậc. Nhưng thịt chó có cái hương vị riêng
của nó, nghĩa là khá mạnh, và có lẽ chỉ những người nào thích nhắm nháp
với ly rượu đế, hay thích nếm những "của ngon vật lạ", mới có thể mê
được.
Đến một làng tên là làng Ân Thi, chúng tôi đang đi dưới tán lá tre um
tùm, chợt nghe thấy tiếng chuông nhà thờ ngân vang ở ngay gần đâu đó.
Sau này, nếu tôi có còn nhớ mãi cái tên làng Ân Thi, chắc cũng vì ngôi
nhà thờ ở đây. Hình ảnh ngôi nhà thờ đồ sộ bằng gạch đá, xuất hiện một
cách bất ngờ sau những rặng tre, đã để lại cho tôi một ấn tượng mạnh
mẽ. Trước kia, nói đến nhà thờ, tôi chỉ biết có nhà thờ lớn ở Hà Nội.
Sau về Dũng Kim, mới biết là ngay ở một làng quê nhỏ bé và nghèo xác xơ
như làng tôi, cũng có xóm đạo và có nhà thờ. Khi hát bài Làng tôi của
Văn Cao ngày ấy, tôi mới chỉ mường tượng được cái nhà thờ nhỏ bé của
xóm đaọ làng tôi ở bên kia sông thôi, chứ chưa bao giờ hình dung được
một ngôi nhà thờ to lớn, như nhà thờ Ân Thi, trong bóng tre xanh của
một xóm làng việt Nam.
Có những điều mà mãi sau này tôi mới hiểu hết được ý nghĩa, nhưng ở cái
tuổi còn thơ dại ngày ấy, tôi mới chỉ cảm nhận được một số hiện tượng
bằng cái bản năng tự nhiên của mình mà thôi.
Chẳng mấy chốc đã đến bến đò. Không có một dấu hiệu gì đặc biệt chỉ đây
là một bến đò, vậy mà người ta vẫn biết. Bãi sông ở đây toàn là đất cát
và phù sa, những ruộng khoai lang mọc lan đến tận gần bờ nước. Sông
Hồng ở khúc này rộng mênh mông, nhìn sang bờ bên kia xa mù mịt. Con
thuyền nan lớn trông nặng và chắc chắn như thế, mà khi ra tới giữa
sông, sóng to, cứ tròng trành, nước mấp mé đến cạp thuyền, trông thật
dễ sợ. Khách trên thuyền thuộc đủ mọi hạng người, nào các bà, các cô đi
buôn bán ở xa về, với đầy gồng gánh, thúng mủng, nào anh cán bộ với
chiếc xe đạp đã cũ, anh bộ đội địa phương vào những ngày đầu kháng
chiến, với khẩu súng trường và quả lựu đạn giắt ngang lưng. Ra đến chỗ
sóng to nhất, mấy bà cụ từ nãy vẫn ngồi thu hình ở giữa khoang, nét mặt
lo sợ, đang giở tràng hạt ra lầm rầm khấn khứa.
Tôi vực nước vào lòng bàn tay, thấy nước trong không một chút vẩn đục.
Sông Hồng thực ra chỉ nhìn từ xa mới thấy được màu đỏ của phù sa. Măt
trời đã bắt đầu xế bóng. Có những đám mây đen bỗng nhiên kéo tới làm
cho tối hẳn cả một góc trời. Nước sông chỗ ấy đen thẫm như mực, làm cho
mặt sông khúc đỏ, khúc đen, trông càng thêm dữ dội. Con thuyền chèo
bằng tay, nên sang được đến bờ bên kia cũng vất vả và mất khá nhiều thì
giờ.
Sang đến bên này sông, cũng lại là những bãi khoai, bãi ngô. Đây hình
như đã là phủ Khoái Châu, thuộc tỉnh Hưng Yên rồi thì phải.
Chúng tôi rời bờ sông, đi lên một con đê. Đi ở trên đê, nhìn về phía
xa, tít nơi chân trời, vẫn còn thấy được sông Hồng. Cảnh ở đây đẹp bát
ngát. Có một lúc, chúng tôi rời đường đê, đi rẽ vào một rặng nhãn.
Những chùm nhãn lồng tuy còn xanh chưa ăn được, nhưng đã khá to, có
chùm sai quả trĩu xuống đến sát đầu người, với tay lấy được. Giá mà
chúng tôi đi qua đây muộn hơn độ một tháng, thì đã tha hồ được ăn nhãn
lồng rồi !
Đi
thêm một quãng đường nữa là đã tới làng Bông. Làng xóm ở đây xem ra
có vẻ giàu có, khác hẳn với làng Dũng Kim bên quê nội chúng tôi. Đường
làng rộng rãi, sạch sẽ, đôi chỗ có lát gạch. Trong làng trồng nhiều cây
cối và có nhiều hồ ao. Lác đác đây đó, có những chiếc nhà ngói có cả
cổng ngõ và sân gạch để phơi phóng.
Ngôi nhà mà bác và cậu dẫn chúng tôi đến là nhà của vợ chồng một ông
phú hộ ở làng này, không biết có họ hàng gì với nhà chúng tôi không,
nhưng xem ra có vẻ thân tình lắm. Họ ngoại nhà tôi về đây đông quá, nên
phải ở nhờ nhà của những người trong làng. Khi chúng tôi bước qua chiếc
cổng gạch để vào sân, thì gặp ngay bà chủ nhà đang sàng sẩy với đầy
nong nia ở trên sân. Trông thấy chúng tôi, bà chào hỏi như thể vẫn quen
biết chúng tôi từ lâu. Có thể ngày xưa bà đã từng quen biết mẹ chúng
tôi cũng nên ?
Quê này là quê của lúa, chứ không phải quê của mía, lạc, hay dong,
riềng, tôi đoán vậy, vì thấy ngay dấu vết của những vụ gặt với những
nông cụ treo ở đầu nhà, với cối giã gạo, vựa thóc, chuồng trâu bò, và
những đống rơm cao ngất.
Bác và cậu tôi gọi bà chủ nhà là bà Lý. Bà chỉ trạc độ ngoài 50 tuổi,
nét mặt còn đẹp, nhưng vì nhiều nếp nhăn nên trông hơi khắc khổ. Ông Lý
cũng vừa ở trong nhà đi ra, trông ông nhỏ nhắn, hiền lành, người có vẻ
ít nói, nét mặt buồn buồn như có một tâm sự gì đó. Mấy ngày sau, tôi
được biết ông có một người vợ bé bán hàng ở chợ Bông, nhưng bà vợ bé
này không bao giờ được bà Lý công nhận, nên ông Lý khổ tâm lắm. Bà Lý
ăn ở với ông được một mụn con gái, người rất xinh đẹp, nhưng lại hơi dở
người, nên không ai dám hỏi, dám lấy. Bà vợ bé có được một người con
trai với ông Lý, anh ta người cần cù dễ thương, được bà Lý rất tin yêu,
mọi việc trong nhà anh đều giúp bà quán xuyến hết.
Vào đến mấy gian nhà ngang, nơi bà ngoại và một vài gia đình trong họ
ngoại tôi ở từ khi tản cư về đây, tất cả mọi người từ lớn chí bé, như
biết trước, nên đã tụ họp đông đủ để chờ đón chúng tôi. Nỗi vui mừng
được gặp lại nhau sau hơn một năm trời cách biệt, thật không sao tả
xiết. Những ngày vui ở Thái Hà Ấp, khi mẹ tôi còn sống, lại như được
gợi lên trong trí óc mọi người. Những người cùng họ, nhưng trước kia
vẫn ở lại dưới quê, cũng chạy đến thăm hỏi ân cần. Ai cũng bảo chúng
tôi sao mà giống mẹ thế !
Những
ngày ngắn ngủi mà chúng tôi được ở lại chơi bên Bông với bà và họ
hàng bên ngoại là những ngày đầy kỷ niệm êm đềm. Ngày ấy, cái tình của
chúng tôi đối với nhau bên họ ngoại còn rất là mạnh, và trong sáng,
chưa có một chấm đen nào xuất hiện ở chân trời. Mãi đến sau này, tôi
vẫn không hiểu được tại sao cái tình đó đã có thể có được ở bên họ
ngoại, mà lại không có được ở bên họ nội. Có lẽ tất cả chỉ vì cái cơ
cấu đại gia đình của bên họ nội, đã gây nên cảnh xâu xé nhau để tranh
giành quyền lợi, nhất là khi uy quyền của thầy tôi, người chủ gia đình,
đã giảm sút, và tình hình làm ăn bắt đầu xấu đi. Nhưng rồi ngay cả đến
cái tình trong lành của những người bên họ ngoại cũng đã bị rạn nứt ,
mất mát đi trong cơn bão lốc của chiến tranh và trong những biến cố xảy
đến sau này, vào năm 1955, do những sai lầm trong cuộc cải cách ruộng
đất.
Ngày ấy, cả mấy gia đình bên họ ngoại nhà tôi ở Hà Nội và ở Thái Hà Ấp
đều tản cư về làng Bông, nên bọn trẻ, các anh chị em con cô con cậu
chúng tôi đông lắm, suốt ngày cứ quấn quít lấy nhau đùa nghịch, khi thì
ngồi quây quần ca hát, khi thì đi chơi quanh quẩn ngoài bờ ao, bờ đê,
thả diều, săn rắn, bắt ếch, khi thì đi theo anh Nhân, con ông chủ nhà,
cho trâu ra ăn cỏ ở ngoài đồng.
Riêng tôi, hay được cậu Bảy tôi cho đi theo bắn chim với một cái ná.
Chiếc ná bằng gỗ quý, không biết cậu tôi lục tìm được ở đâu ra, hãy còn
bám bụi, chắc là của ông ngoại, hay của cụ tổ nào để lại ở đây. Lần đầu
tiên, tôi được cầm một cái ná, thấy cũng nguy hiểm, vì biết sức mạnh
của nó. Cậu tôi cho tôi bắn thử trước vào những gốc cây ở chỗ vắng
người. Tôi đứng cách xa đến mười thước, mà mũi tên cắm ngập vào thân
cây đến năm sáu phân. Đường tên đi thẳng và mạnh. Tôi nghĩ bụng, mũi
tên này bắn thú rừng cũng phải chết, chứ không nói gì đến bắn chim !
Vui nhất là những ngày có phiên chợ Bông. Không có một phiên chợ nào mà
chúng tôi không rủ nhau đi cho bằng được. Chợ Bông là chợ to nhất ở
vùng này, nên nhiều hàng lắm, nhất là hàng quà ! Đi chợ ở đây nhiều khi
bắt gặp cả những người Hà Nội tản cư về vùng này. Mỗi lần có phiên chợ
như vậy là anh Nhân, con bà vợ bé của ông Lý, lại tìm cách ra đây để
gặp mẹ mình. Bà mẹ ngồi bán hàng ở đây, trông người hiền lành, phúc
hậu. Cảnh mẹ con anh Nhân gặp nhau gần như lén lút ở mỗi phiên chợ, lại
làm cho chúng tôi càng thêm ái ngại.
Hình
ảnh cuối cùng về quê ngoại của tôi, là hình ảnh một buổi chiều trên bờ
đê, trước hôm chúng tôi lên đường về Dũng Kim.
Chiều hôm đó, ba người chúng tôi, chị Thanh, anh Nhân và tôi, cho trâu
ra ăn cỏ ở ngoài bờ đê cách làng không xa. Chúng tôi ngồi nói chuyện
trên bãi cỏ ven đê cho đến khi mặt trời sắp lặn, nhưng ở đằng chân trời
vẫn còn những áng mây màu sáng chói. Bầu trời trong xanh, cao lồng
lộng. Chợt chúng tôi ngừng nói chuyện. Chị Thanh và anh Nhân nhìn nhau,
rồi chị bỗng nói với tôi bằng một giọng cảm động : "Mai em về
bên ấy
rồi, không biết đến ngày nào chúng mình mới gặp lại nhau. Bây giờ em có
ước nguyện một điều gì không, em cứ nói đi…". Tôi nhìn vào
đôi mắt sâu
thẳm của chị mà không biết nói gì, ước gì. Làm sao mà tôi biết được
rằng, ngay từ ngày mai đây, số phận sẽ bắt chúng tôi phải xa nhau mãi
mãi. Làm sao mà tôi biết được rằng rồi ra chiến tranh sẽ làm thay đổi
hết cả, ngay cả cái tình của chúng tôi đối với nhau ngày ấy, ngay cả
những con người hiền lành, chất phác bên họ ngoại nhà tôi ?
Nhìn lên bầu trời đang thẫm dần và bắt đầu điểm những vì sao lấp lánh,
tôi thầm cầu nguyện cho chị Thanh gặp nhiều hạnh phúc. Chị Thanh và anh
Nhân, hai con người cùng cảnh ngộ, bây giờ đã gặp được nhau ở đây, xem
ra ý hợp tâm đầu lắm, tôi thầm mong cho họ lấy được nhau. Nghĩ trong
bụng thế, nhưng rồi tôi cũng không biết nói gì cả. Riêng phần tôi,
không biết ước ao gì cho mình lúc bấy giờ… Cuối cùng, chị Thanh lấy ở
trong túi ra một chiếc mùi xoa bằng lụa do chính tay chị thêu, và bảo
đó là của anh Nhân và của chị cùng tặng tôi làm kỷ niệm.
Nắng chiều vẫn chưa tắt hẳn trên mặt đê khi chúng tôi đánh trâu trở về.
Nhiều năm về sau, tôi vẫn còn nhớ mãi cái kỷ niệm buổi chiều hôm ấy, và
tôi vẫn tự hứa với mình bao giờ sẽ trở về thăm lại làng Bông, thăm lại
cái nôi của họ ngoại, và sống lại những buổi chiều êm ả nơi quê mẹ.
Quay về:
Lời giới thiệu: Văn Ngọc - Một người Hà Nội rất Hà NộiChương 01: Tuổi vỡ lòng
Chương 02: Khu phố thời thơ ấu
Chương 03: Phố tôi ngày ấy
Chương 04: Những năm tháng không thể nào quên
Chương 05: Những ngày tháng chạp 1946
Chương 06: Hà Nội những ngày khói lửa
Chương 07: Ăn Tết làng dừa
Chương 08: Hà Nội mến yêu
Chương 09: Những ngôi nhà xưa
Chương 10: Ăn tết bên ngoại
Chương 11: Tết Trung Thu
Chương 12: Giấc mơ xưa
Chương 13: Những nhớ thương ngày cũ
Chương 14: Cái chất lãng mạn tuyệt vời
Chương 15: Dạo chơi hồ Tây một chiều chủ nhật
Chương 16: Đồng chiêm
Chương 17: Về thăm quê cũ
Các thao tác trên Tài liệu